Các cuộc tập trận quân sự của Trung Quốc sau khi Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi thăm Đài Loan đã làm dấy lên báo động xung quanh khu vực. Mặc dù đòn trả đũa thương mại mới của Trung Quốc hầu như không tạo ra dấu hiệu nghiêm trọng tức thời – chủ yếu là vì Bắc Kinh không muốn tự làm tổn thương mình.
Theo các nhà kinh tế, giá trị thương mại bị nhắm mục tiêu bởi các lệnh trừng phạt của Trung Quốc đóng góp một lượng nhỏ dưới 1% vào tổng sản phẩm quốc nội của Đài Loan, theo các nhà kinh tế. Bắc Kinh có thể tăng cường các hành động bằng cách nhắm vào nhiều sản phẩm thực phẩm, gỗ hoặc khoáng sản hơn. Nhưng việc đánh thuế vào bất kỳ mặt hàng có giá trị lớn nào có thể gây thiệt hại thực sự cho Bắc Kinh – chẳng hạn như chất bán dẫn – là điều gần như không thể tưởng tượng được, do sự phụ thuộc của Trung Quốc vào hòn đảo này về công nghệ tiên tiến.
Điện tử thống trị
Trung Quốc có thể nhắm mục tiêu vào gỗ hoặc khoáng sản của Đài Loan hơn là đồ điện tử, vốn là phần lớn hàng xuất khẩu của Đài Loan sang Bắc Kinh vào năm 2021.
Ma Tieying, chuyên gia kinh tế tại DBS Group Holdings Ltd., cho biết: “Cơ hội vẫn còn tương đối thấp” để Trung Quốc nhắm mục tiêu vào công nghệ Đài Loan; “Nếu bạn nhìn vào vai trò của Đài Loan trong nguồn cung bán dẫn toàn cầu, nó chiếm ưu thế rất lớn. Sẽ rất khó để Trung Quốc tìm được nguồn cung thay thế nếu nước này cấm các chất bán dẫn do Đài Loan sản xuất”.
Hiện tại, Bắc Kinh vẫn có một số công cụ có thể triển khai để gây sức ép với Đài Loan. Trung Quốc và Hồng Kông chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan, mặc dù Đài Loan đã nỗ lực giảm bớt sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc trong những năm gần đây. Nhiều hạn chế hơn sẽ là một vấn đề kinh tế đau đầu đối với Đài Loan, vốn đang phải vật lộn với việc nhu cầu điện tử toàn cầu chậm lại và lạm phát cao, làm giảm triển vọng tăng trưởng của nước này.
Dưới đây là những gì Trung Quốc đã nhắm mục tiêu và khả năng có nhiều biện pháp chống lại Đài Loan hơn như thế nào:
Các biện pháp trừng phạt thương mại
Các biện pháp trừng phạt thương mại mà Bắc Kinh đã gây ra trong tháng này được cho là sẽ có tác động nhẹ đến Đài Loan. Thực phẩm chỉ chiếm 0,4% thương mại xuyên eo biển, các nhà kinh tế của Goldman Sachs Group Inc đã viết trong một báo cáo nghiên cứu vào tuần trước. Tổng cộng, thương mại song phương giữa hai nền kinh tế đạt 328,3 tỷ USD vào năm ngoái.
Các nhà kinh tế của Goldman cho biết những hạn chế gần đây ảnh hưởng đến trái cây có múi và một số mặt hàng cá có thể tác động ít hơn 0,1% đến GDP của Đài Loan.
Ngoài ra còn có bằng chứng về căng thẳng khác, bao gồm dữ liệu hải quan Trung Quốc cho thấy Bắc Kinh cũng đã chặn nhập khẩu hơn 2.000 mặt hàng thực phẩm từ Đài Loan trong tổng số 3.200 mặt hàng, bao gồm các sản phẩm từ chè, bánh quy đến cá. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ khi nào việc nhập khẩu bị đình chỉ toàn bộ. Thậm chí, truyền thông Đài Loan đưa tin rằng Trung Quốc đã cấm nhập khẩu thực phẩm từ hơn 100 nhà cung cấp của hòn đảo.
Nếu Trung Quốc muốn giảm nhẹ hậu quả của các lệnh trừng phạt đối với nền kinh tế của mình, họ có thể nhắm mục tiêu vào gỗ, khoáng sản, giày dép hoặc mũ của Đài Loan. Theo báo cáo của DBS, hoạt động thương mại của Đài Loan phụ thuộc nhiều hơn vào việc giao những mặt hàng đó cho Trung Quốc so với việc Trung Quốc nhận chúng từ hòn đảo này.
Theo DBS, Trung Quốc cũng sẽ có thời gian dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm các nguồn thay thế cho các sản phẩm đó. Ví dụ, 1/5 gỗ của Đài Loan được xuất khẩu sang Trung Quốc, nhưng số này chỉ chiếm khoảng 0,1% tổng lượng gỗ nhập khẩu của Trung Quốc. Các quốc gia khác mà Trung Quốc nhập khẩu gỗ bao gồm Nga, Mỹ và Úc.
Trung Quốc cũng có thể hạn chế xuất khẩu nhiều hơn của mình sang Đài Loan, như đã làm với cát tự nhiên. Có một số tiền lệ lịch sử làm như vậy, vì Bắc Kinh trước đó đã ngừng xuất khẩu cát vào năm 2007 trong khoảng một năm, với lý do lo ngại về môi trường. Tuy nhiên, Đài Loan đã giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc trong lĩnh vực đó kể từ lệnh cấm đó hơn một thập kỷ trước, theo các nhà kinh tế tại JPMorgan Chase & Co, người gọi những hạn chế thương mại gần đây nhất của Trung Quốc là “chủ yếu mang tính biểu tượng”.
Nhưng với sức mạnh công nghệ
Không có gì ngạc nhiên khi công nghệ là trung tâm của thương mại qua eo biển Đài Loan, chiếm gần 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan sang Trung Quốc.
Đài Loan được biết đến là nhà cung cấp chất bán dẫn hàng đầu thế giới, nhờ sự thống trị vượt bậc của Công ty sản xuất chất bán dẫn Đài Loan (TSMC), công ty này chiếm khoảng một nửa thị trường đúc chip toàn cầu. Thế nên, Trung Quốc sẽ rất khó tìm được nhà cung cấp thay thế nếu họ cấm nhập khẩu chip từ Đài Loan, đặc biệt là đối với chip 5 nanomet và 7 nanomet tiên tiến nhất.
Gần đây, Trung Quốc và các quốc gia lớn khác, bao gồm Mỹ và Nhật Bản, đã tìm cách thúc đẩy đầu tư trong nước vào chất bán dẫn và lôi kéo các công ty như TSMC xây dựng nhà máy ở nước họ, một phần để giảm bớt rủi ro địa chính trị về khả năng gián đoạn nguồn cung chip của Đài Loan.
Trong khi đó, các nhà sản xuất chip Trung Quốc như Semiconductor Manufacturing International Corp. cũng phải đối mặt với các lệnh trừng phạt của Mỹ và thắt chặt các hạn chế xuất khẩu khi Washington cố gắng kiềm chế tham vọng chip của Bắc Kinh. Trong khi các công ty cây nhà lá vườn ở Trung Quốc đã đạt được những bước tiến trong việc sản xuất chip tiên tiến, nhưng các chuyên gia trong ngành cho rằng họ vẫn chậm hơn vài năm so với tiêu chuẩn của TSMC, có nghĩa là công ty Đài Loan vẫn là nguồn lực quan trọng của Trung Quốc.
Ma Tieying, nhà kinh tế cấp cao của DBS cho biết: “Điều cần phải theo dõi là liệu Bắc Kinh có mở rộng lệnh cấm thương mại vào lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là chất bán dẫn / điện tử trong tương lai hay không’.
Trong khi đó, Even Pay, một nhà phân tích tại công ty tư vấn Trivium China ở Bắc Kinh, cho biết có thể sẽ có thêm nhiều gián đoạn thương mại giữa Trung Quốc và Đài Loan trong khi căng thẳng vẫn ở mức cao. Bà nói rằng đó là “thông lệ” đối với Bắc Kinh để xác định các vấn đề tuân thủ nhỏ và thực thi các quy tắc rất nghiêm ngặt với các đối tác thương mại.
Một mối quan tâm chính khác là liệu một loạt cuộc tập trận quân sự xung quanh Đài Loan có tác động đáng kể đến ngành vận tải biển hay không. Tuy nhiên, đến hiện tại hoạt động vận chuyển ở eo biển Đài Loan có dấu hiệu trở lại bình thường. Nhưng Even Pay cho tình hình phát triển vận tải trên eo biển rất khó dự đoán.
T.P