Lo lắng về khả năng “vũ khí hóa” đồng USD và khoản nợ công của Mỹ đã thúc đẩy các nước đi tìm giải pháp thay thế.
Henny Sender – cựu giám đốc điều hành của công ty đầu tư BlackRock, nay là nhà tư vấn chiến lược cho các công ty dịch vụ tài chính và là phóng viên của Financial Times – đã có bài viết phân tích về động thái mua vàng của nhiều ngân hàng trung ương, đăng tải trên Nikkei Asia. VietTimes xin gửi quý độc giả nội dung chuyển ngữ.
Trong nhiều thế kỷ, các loại đá quý và kim loại quý luôn là nơi trú ẩn an toàn trong bối cảnh nguy hiểm và bất ổn.
Ngày nay, các ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm dự trữ ngoại hối của đất nước, họ đã trở thành những nhà đầu tư thận trọng và ngại rủi ro nhất trên hành tinh. Trong cuộc kiếm tìm nơi trú ẩn an toàn, nhiều bên đã quay trở lại với vàng.
Theo cách nào đó, điều này nghe có vẻ mâu thuẫn. Trong khi lãi suất ở Mỹ cao hơn, lợi suất trái phiếu cao đang hỗ trợ cho đồng USD, hiện vẫn là đồng tiền dự trữ thống trị. Điều đó khiến cho chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng đang tăng lên. Thế nhưng nhu cầu vàng của các ngân hàng trung ương trong năm ngoái và quý đầu năm nay vẫn cao, đẩy giá của kim loại quý này lên sát mức kỷ lục.
Lý do rất đơn giản.
Vàng là một trong những tài sản được hưởng lợi nhiều nhất trong tình hình căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc, cũng như trong cuộc chiến ở Ukraine. Bên cạnh vàng, triển vọng đồng NDT của Trung Quốc trở thành một đồng tiền dự trữ cũng tăng thêm đôi chút.
Nỗi lo về “vũ khí hóa” đồng USD đã tăng kể từ khi Mỹ thu giữ 300 tỉ USD dự trữ của ngân hàng trung ương Nga sau khi cuộc chiến ở Ukraine bùng nổ. Cùng thời điểm, Washington từ chối cho phép Taliban kiểm soát 7 tỉ USD dự trữ của ngân hàng trung ương Afghanistan, mà chế độ trước đã lưu giữ tại Fed. Nhiều nước khác, bao gồm cả Malaysia, cũng đang bày tỏ lo ngại về nguy cơ trở thành nạn nhân của việc vũ khí hóa đồng USD.
Xét về việc các ngân hàng trung ương tăng mua vàng có thể làm giảm lượng mua USD, hay trái phiếu kho bạc Mỹ và các tài sản USD khác. Xu hướng này có thể tăng dần theo thời gian và càng gây thêm quan ngại về trái phiếu chính phủ Mỹ. Sự bền vững tài chính đã trở thành một vấn đề khi nợ công của Mỹ tăng vọt. Cùng thời điểm, cam kết của Washington đối với toàn cầu hóa và tự do thương mại đang bị nghi ngờ.
Nếu một quốc gia khác không muốn đầu tư vào các tài sản USD, như trái phiếu kho bạc, tại sao họ phải dự trữ đồng USD?
“Mọi ngân hàng trung ương đều đang tìm cách đa dạng hóa và tìm kiếm sự thay thế cho đồng USD”, nhà kinh tế học Eswar Prasad phát biểu bên lề Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) tổ chức tại Thiên Tân, Trung Quốc trong tháng trước. “Điều đó sẽ diễn ra dần dần”.
Các ngân hàng trung ương và tổ chức tài chính khác đã mua gần 1.100 tấn vàng trong năm 2022, gấp đôi so với lượng vàng mua vào của 5 năm trước gộp lại. Đây là lượng mua theo năm lớn nhất kể từ những năm 1950, theo dữ liệu của JPMorgan.
Những tổ chức này đã mua thêm 229 tấn trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 3 năm nay, tăng 176% so với cùng kỳ năm ngoái, theo dữ liệu của Hội đồng Vàng Thế giới.
Phi đôla hóa đã được dự đoán từ trước. Nhưng lần này lại có gì đó khác biệt. Đồng USD giờ chiếm 58% dự trữ hối của các ngân hàng trung ương trên toàn cầu, giảm so với mức 73% trong năm 2000. Vàng hiện tại chiếm 15%.
Nga đã bắt đầu thay đổi dự trữ từ năm 2014, nhưng xu hướng phi đôla hóa trên toàn cầu mới chỉ bắt nhịp và lan rộng trong năm ngoái.
“Trung Quốc đã tăng lượng vàng dự trữ trong 6 tháng liên tiếp, sau khi không thay đổi trong suốt 38 tháng”, bản báo cáo của JPMorgan trong tháng 5 chỉ ra. “Tốc độ tăng dự trữ vàng theo tháng lần này nhanh hơn nhiều so với các vòng trước đó”.
Nga và Trung Quốc chiếm 60% tổng lượng vàng mua vào trong giai đoạn từ 2010 đến 2022. Các bên mua khác bao gồm những nước Vùng Vịnh và các nước Trung Á, trong khi Ấn Độ luôn duy trì sự hứng thú với vàng.
Hiện tại, ngay cả Singapore cũng mua vàng một cách thận trọng khi giới chức nước này ngày càng quan ngại về quan điểm bảo hộ của Mỹ.
Giá vàng tăng cho thấy thế giới đang tìm kiếm sự thay thế cho đồng USD ngay cả khi không có sự thay thế nào rõ ràng ở thời điểm hiện tại.
Đồng NDT đang dần tiếp nhận một số đặc điểm của một đồng tiền dự trữ, đặc biệt là ở châu Á. Do các lệnh trừng phạt, việc đa dạng hóa ngày càng trở nên cần thiết hơn, thay vì chỉ là một lựa chọn.
Ngày càng có thêm các giao dịch, đặc biệt là giao dịch hàng hóa, được thực hiện bằng đồng NDT, kể cả những giao dịch không liên quan trực tiếp tới Trung Quốc. Ví dụ, Ấn Độ đã thanh toán tiền nhập năng lượng của Nga bằng đồng NDT, trong khi Bangladesh rót vốn cho thương vụ mua một nhà máy điện hạt nhân của Nga bằng đồng tiền của Trung Quốc.
Trong khi đó, Hiệp định Quan hệ Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đã giúp các nước châu Á xích lại gần hơn với Trung Quốc xét về thương mại. Hiệp định này bao gồm Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia Đông Nam Á.
Thông thường, việc phòng ngừa tỷ giá các đồng tiền trong khu vực như đồng đôla Australia so với NDT sẽ rẻ hơn nếu phòng ngừa USD. Ngân hàng trung ương Pakistan đang trả chi phí phòng ngừa rủi ro cho các công ty trong nước sử dụng NDT để trả tiền nhập khẩu, như cách để bảo đảm lượng USD dự trữ đang suy giảm của nước này.
Có điều đáng chú ý hiện nay là Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) thiết lập đường dây hoán đổi với 40 đối tác, hầu hết trong khu vực châu Á, trong khi chỉ có một vài liên kết với Fed. Mạng lưới hoán đổi này có tiềm năng lên tới 4 nghìn tỉ NDT (599 tỉ USD).
Nhưng kể cả khi Bắc Kinh có tăng cường nỗ lực thúc đẩy các đối tác thương mại thanh toán bằng đồng NDT, họ vẫn còn một chặng đường dài để đi. Ngày nay, NDT chỉ chiếm khoảng 2,3% các giao dịch quốc tế thông qua mạng lưới của SWIFT, trong khi đồng USD chiếm 43% và đồng euro là 32%.
T.P