Saturday, May 4, 2024
Trang chủGóc nhìn mớiCạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung ở Biển Đông đặt ra...

Cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung ở Biển Đông đặt ra thách thức đối với các nước trong khu vực                 

Trong bối cảnh thế giới đang diễn ra nhiều cuộc cạnh tranh và xung đột khốc liệt, đặc biệt là xung đột quân sự Nga – Ucraina, suy thoái kinh tế toàn cầu, lạm phát tăng cao, hậu quả đại dịch Covid-19, hệ lụy biến đổi khí hậu… gây ảnh hưởng nặng nề tại nhiều khu vực trên thế giới… thì cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung ở Biển Đông những năm qua vẫn tiếp diễn và xuất hiện những nét mới, gây ra nhiều thách thức và bất lợi cho các nước trong khu vực, đồng thời thu hút sự quan tâm của giới chuyên gia và hoạch định chính sách cả ở tầm quốc tế, khu vực và song phương.

Từ mục tiêu chiến lược đã định của Trung Quốc và Mỹ đối với Biển Đông…

Có một thực tế cho thấy là, qua mỗi nhiệm kỳ Tổng thống ở Mỹ và các kỳ đại hội của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân sự cấp cao của hai nước có thể thay đổi, nhưng mục tiêu chiến lược của cả Trung Quốc và Mỹ đối với Biển Đông cho đến nay vẫn hầu như không thay đổi. Theo đó:

Đối với Trung Quốc: Từ lâu Bắc Kinh đã xác định, Biển Đông là khu vực có lợi ích “sống còn” đối với chiến lược trở thành “cường quốc toàn cầu” của họ, vì: 1/ Về địa chính trị, khu vực này là “lối thoát chiến lược” để Trung Quốc mở rộng “không gian sinh tồn” trong chiến lược trở thành “cường quốc thế giới”; 2/ Về địa kinh tế, đây là vùng biển đặc biệt quan trọng đối với Trung Quốc, là tuyến đường vận tải thương mại quốc tế huyết mạch, nơi có nguồn cung cấp tài nguyên thiên nhiên đảm bảo cho sự phát triển ổn định lâu dài của Trung Quốc; 3/ Về địa quân sự, Biển Đông càng đóng vai trò đặc biệt quan trọng hơn đối với Trung Quốc, kiểm soát, khống chế được Biển Đông sẽ giúp Trung Quốc mở rộng không gian phòng thủ, kiểm soát được các hoạt động quân sự của Mỹ và đồng minh ở khu vực, đồng thời sẽ giúp Trung Quốc tăng cường sức hội tụ, cố kết dân tộc, hỗ trợ cho kế hoạch “thu hồi” Đài Loan.

Do đó, Trung Quốc chủ trương: Sử dụng tổng hợp các biện pháp chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao, cả “cứng” và “mềm”, từng bước giành quyền kiểm soát Biển Đông, biến Biển Đông trở thành “bàn đạp” mở rộng ảnh hưởng ra khu vực, bảo đảm cho Trung Quốc có vai trò quyết định ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, phục vụ cho việc thực hiện “giấc mộng Trung Hoa”, đưa Trung Quốc trở thành “cường quốc hải dương”, tiến tới trở thành “cường quốc thế giới” vào giữa thế kỷ XXI.

Đối với Mỹ: Mỹ xác định, Biển Đông là khu vực có vị trí, vai trò chiến lược đặc biệt quan trọng ở châu Á – Thái Bình Dương và chiến lược toàn cầu của Mỹ, nhất là trong việc ngăn chặn, kiềm chế, không để Trung Quốc trở thành thế lực đủ sức thách thức địa vị “lãnh đạo thế giới” của Mỹ. Mỹ cho rằng: “Trong thế kỷ XXI, nước nào chi phối được Đông Á thì sẽ chi phối được cả thế giới”. Do vậy, mục tiêu chiến lược của Mỹ ở Biển Đông là: Lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, duy trì trạng thái “cạnh tranh kéo dài” và “căng thẳng thường trực” để tạo cớ cho Mỹ can dự, can thiệp, gia tăng hiện diện quân sự, lôi kéo các nước… nhằm thực hiện tham vọng khống chế, chi phối Biển Đông, kiểm soát tuyến đường hàng không, hàng hải chiến lược quan trọng đi qua khu vực này, bịt chặt “lối thoát chiến lược” của Trung Quốc, duy trì vai trò lãnh đạo của Mỹ ở khu vực và trên thế giới.

…đến các hoạt động cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung ở Biển Đông thời gian gần đây

Kể từ khi ông J.Biden lên làm Tổng thống ở Mỹ và ông Tập Cận Bình tiếp tục nắm quyền lãnh đạo tối cao nhiệm kỳ thứ ba ở Trung Quốc, hai bên đã và đang ra sức tập hợp thêm lực lượng về phía mình, triển khai nhiều hoạt động hơn trên thực địa, đẩy sự cọ xát và áp sát giữa hai nước ngày càng gần nhau, khiến cho nguy cơ xung đột rất có thể xảy ra nếu hai bên thiếu sự kiềm chế. Theo đó:

Trung Quốc sử dụng đa dạng các biện pháp nhằm mở rộng quyền kiểm soát, tiến tới “độc chiếm Biển Đông”như mục tiêu họ đã đặt ra.

Trên lĩnh vực pháp lý. Nhằm khắc phục những hạn chế và sự yếu thế trên lĩnh vực này, Bắc Kinh ra sức quan tâm thúc đẩy các biện pháp nhằm “pháp lý hóa” Biển Đông. Ngoài việc “nội luật hóa” Biển Đông như ban hành Luật Hải cảnh vào tháng 1/2021 và Luật An toàn giao thông hàng hải sửa đổi  vào tháng 4/2021 trái với quy định của luật pháp quốc tế nhằm khẳng định và bảo vệ cái mà lâu nay Trung Quốc vẫn gọi là “chủ quyền hợp pháp” của mình ở Biển Đông, thì Trung Quốc còn tìm đủ mọi cách để làm “biến dạng” Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) theo cách của mình. Tuy không phủ nhận giá trị của Công ước, thậm chí còn ngày càng nhắc nhiều hơn tới Công ước này, nhưng Bắc Kinh luôn tìm cách làm méo mó mọi quy tắc của nó, với danh nghĩa “quyền lịch sử” mà không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào. Tại các diễn đàn đa phương được tổ chức trong năm 2022 và thời gian gần đây, các học giả Trung Quốc khi đăng đàn tại các cuộc hội thảo quốc tế đều kêu gọi cần vận dụng UNCLOS 1982 “hoàn chỉnh, chính xác và toàn diện hơn”. Thực chất, họ muốn hướng lái và “cưỡng ép” các nước hiểu và giải thích về UNCLOS 1982 theo cách hiểu và giải thích của họ, từ đó giúp Bắc Kinh có cơ sở pháp lý để xử lý các hành động của bên ngoài mà theo họ là vi pháp luật pháp của Trung Quốc, dù rằng những hành động đó nằm hoàn toàn trên vùng biển thuộc chủ quyền hợp pháp của nước khác chứ không phải của Trung Quốc. Trong năm 2022, cả Trung Quốc và ASEAN đều đưa ra các tuyên bố mong muốn thúc đẩy tiến trình đàm phán và sớm đạt được thỏa thuận về COC nhân kỷ niệm 20 năm ngày ký DOC. Tuy nhiên, hai vấn đề mấu chốt là phạm vi áp dụng và cơ chế giám sát giải quyết tranh chấp vẫn bất đồng mà chủ yếu là xuất phát từ những yêu sách quá đáng của Bắc Kinh. Trung Quốc cùng với Campuchia – nước Chủ tịch ASEAN năm 2022, quốc gia rất “thân cận” với Trung Quốc, còn cho rằng, nên có đàm phán giữa các nước yêu sách với Trung Quốc thay vì đàm phán ASEAN – Trung Quốc. Tại hội thảo về Biển Đông được tổ chức từ ngày 16 – 17/11/2022 ở Đà Nẵng, Việt Nam, ông Ngô Sỹ Tồn, đại biểu của Trung Quốc, còn nói: “Sẽ không bao giờ có một COC thực chất, hiệu quả với cơ chế ràng buộc như một số nước kêu gọi…”. Phát biểu của vị học giả “hàng đầu” về Biển Đông của Trung Quốc cho thấy, tính thực chất và hiệu quả của COC ở đây cần phải theo ý của Trung Quốc.

Trên lĩnh vực tuyên truyền, Bắc kinh không từ bỏ bất cứ cơ hội và thủ đoạn nào để phổ biến các yêu sách phi lý trên Biển Đông. Hình ảnh “đường chín khúc” phi pháp vẫn tiếp tục là đề tài tuyên truyền được Trung Quốc chú trọng. Một loạt sản phẩm điện ảnh ra mắt gần đây do Trung Quốc hoặc những tổ chức “thân” Trung Quốc sản xuất đều có gắn hình ảnh “đường chín khúc”, đã được công chiếu và dự kiến sẽ chiếu ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, như phim “Uncharted” (Thợ săn cổ vật), ra mắt tháng 3/2022; phim “Flight to you” (Hướng gió mà đi), ra mắt cuối năm 2022; gần đây nhất là bộ phim “Barbie” dự kiến chiếu ở Việt Nam, nhưng đã bị cấm…

Trên thực địa, Trung Quốc triển khai nhiều hoạt động lấn lướt và chủ động hơn. Đó là: (i) Hoàn thành việc củng cố 7 bãi cạn “nửa chìm nửa nổi” thành các căn cứ quân sự quan trọng trên Biển Đông, đưa các phương tiện quân sự hiện đại và các cơ sở hậu cần lên đó; (ii) Sử dụng lực lượng dân quân biển tạo sự kiểm soát trên thực tế với các bãi cạn “nửa nổi nửa chìm” đang có xu thế nổi, như bãi An Nhơn, Đá Ba Đầu, bãi Én Đất và bãi Tri Lễ, gây sức ép với Philippines và Việt Nam. Điều này cảnh báo, trong tương lai Trung Quốc sẽ áp dụng thường xuyên chiến thuật này tại các vị trí có thể đóng quân ở Biển Đông, từ đó tạo ưu thế lớn cho nước này trong việc kiểm soát và mở rộng sự chiếm đóng, điều mà các nước nhỏ yếu khác khó có thể làm được. Đây sẽ là sự thay đổi căn bản giúp Trung Quốc duy trì lực lượng cảnh sát biển, dân quân biển cùng lực lượng hải quân chính quy gây sức ép lên các nước xung quanh; (iii) Sử dụng chiến thuật trên buộc các tàu Mỹ tham gia các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) phải chuyển hướng, không đi sát vào vùng biển xung quanh các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; (iv) Triển khai chiến lược “biến” một số đảo thành căn cứ lưỡng dụng, lấy yếu tố dân sự che đậy mục đích quân sự. Tháng 7/2022, Trung Quốc tuyên bố xây dựng Trung tâm tìm kiếm cứu nạn ở Biển Đông. Ngoài các lực lượng chấp pháp biển, lần đầu tiên Trung Quốc cho máy bay quân sự bay vào Vùng thông báo bay (FIR) trên biển Malaysia (31/5/2021), xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Malaysia; (v) Đẩy mạnh tần suất hoạt động của tàu hải cảnh trên diện rộng. Như tần suất hoạt động của tàu hải cảnh tại Scarborough từ 287 ngày năm 2020 lên 344 ngày năm 2022; tại Luconia từ 279 ngày lên 316 ngày; tại bãi Tư Chính từ 142 ngày lên 310 ngày; tại bãi Cỏ Mây từ 232 ngày lên 279 ngày. Tàu hải cảnh Trung Quốc còn phối hợp với tàu dân binh hoạt động quấy rối tại bãi Cỏ Mây, cắt cáp tàu Philippines gần đảo Thị Tứ, ngăn cản hoạt động dầu khí và hoạt động tiếp tế của Philippines… Những hoạt động này khiến những vụ đụng độ khó có thể tránh khỏi; (vi) Đưa tàu khảo sát thăm dò xâm phạm nghiêm trọng Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của một số nước trong khu vực, điển hình là vụ tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10 (XYH-10) vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam từ ngày 08/5 đến đầu tháng 6/2023 ở bãi Tư Chính; (vii) Tăng cường các cuộc diễn tập quân sự, nhất là tại các vị trí gần quần đảo Hoàng Sa, với 86 cuộc diễn tập hải quân, 18 cuộc diễn tập không quân (năm 2022); đưa máy bay tiêm kích tàng hình J-20 (tương đương F-35 của Mỹ) ra tuần tra và diễn tập ở Biển Đông; triển khai hai chiếc máy bay không người lái (UAV) cỡ  lớn nhất tại căn cứ Tam Á ở đảo Hải Nam. Ngoài ra, Trung Quốc đã hạ thủy thành công tàu sân bay thứ ba, hoàn thành xây dựng và triển khai giàn khoan dầu khí tự hành lớn nhất thế giới ở Biển Đông vào tháng 7/2022, thành lập Trung tâm chỉ huy khai thác dầu khí tại Nam Hải và Trạm thực nghiệm đáy biển tại Biển Đông, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học biển…

Những hoạt động trên đây cho thấy, Trung Quốc đã giành lợi thế đáng kể ở Biển Đông, phạm vi và khả năng kiểm soát toàn bộ vùng biển này của họ đang dần được mở rộng hơn so với năm năm trước đây.

Mỹ lợi dụng những hoạt động phi pháp của Trung Quốc, đẩy “nóng” vấn đề Biển Đông bằng cả lời nói và hành động thực tế quyết liệt hơn nhằm giành lợi thế theo mục tiêu chiến lược đã định.

Trên mặt trận pháp lý, vì không tham gia UNCLOS1982 nên Mỹ có xu hướng tránh né việc công nhận bất cứ phán quyết của tòa án quốc tế nào liên quan đến luật biển. Tuy nhiên, xu hướng này đã thay đổi đáng kể từ sau khi Chính phủ Mỹ gửi một ghi chú ngoại giao dưới dạng công hàm đến Trung Quốc vào tháng 12/2016 để phản đối lập trường của Bắc Kinh ngay sau khi nước này đưa ra 3 văn bản tuyên bố bác bỏ phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực quốc tế về Luật Biển (PCA). Dưới thời Tổng thống D.Trump và tiếp nối là Tổng thống thống J.Biden, Mỹ đã “tấn công” Trung Quốc mạnh hơn trên lĩnh vực này, như: gửi công thư cho Tổng thư ký Liên hợp quốc tháng 6/2020, phản đối yêu sách phi lý được thể hiện trong công hàm CML/14/2019 của Trung Quốc gửi Liên hợp quốc, đưa ra tuyên bố lập trường Biển Đông chính thức của Mỹ ở cấp độ Bộ trưởng Ngoại giao (tháng 7/2020)…; nhiều lần đề cập đến phán quyết của PCA, coi đây là cơ sở pháp lý quan trọng để chống lại các hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông; kết hợp cùng các nước như Ôxtraylia, Nhật Bản, Canada, New Zealand… viện dẫn kết luận phán quyết của PCA để phản đối và phủ nhận các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông vào dịp kỷ niệm 5 năm ngày PCA ra phán quyết (2016 – 2021)… Gần đây nhất, ngày 13/01/2022), Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố báo cáo mới nhất mang tên “Ranh giới trên các vùng biển” số 150 (gọi tắt là Báo cáo số 150), bác bỏ tất cả các yêu sách phi pháp được Trung Quốc áp đặt trên Biển Đông, khẳng định việc Bắc Kinh yêu sách chủ quyền hoặc một số quyền tài phán đối với gần như toàn bộ Biển Đông một cách bất hợp pháp đã làm tổn hại nghiêm trọng sự thượng tôn pháp luật trên biển và nhiều điều khoản của luật pháp quốc tế đã được công nhận rộng rãi, trong đó có UNCLOS 1982. Động thái này cho thấy, chính quyền của Tổng thống J.Biden đã có sự tiếp nối nhất quán về lập trường pháp lý của Mỹ đối với vấn đề Biển Đông, tạo nền tảng cho những chuyển biến tích cực trên mặt trận pháp lý; có thể tiếp thêm động lực cho các hành động pháp lý khác của các nước có liên quan đến tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông, tiếp tục đấu tranh với Trung Quốc trong thời gian tới.

Trên lĩnh vực tuyên truyền, tuy không tham gia UNCLOS 1982, nhưng Mỹ luôn bám sát Công ước, nhất là phán quyết của PCA, thông qua nhiều hình thức khác nhau, sử dụng các diễn đàn, cơ chế quốc tế và sức mạnh “thống trị” về truyền thông của mình để vạch trần những hoạt động phi pháp, tạo ra “làn sóng” dư luận quốc tế phản đối hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông, lôi kéo các đồng minh và đối tác “cùng chí hướng” trong khu vực gây sức ép với Bắc Kinh.

Trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng: (i) Mỹ có sự điều chỉnh lớn việc triển khai bố trí lực lượng quân sự ở khu vực, đề xuất khái niệm “răn đe toàn diện”, nhấn mạnh “sẽ không cho phép Trung Quốc đạt được lợi thế quân sự”, đồng thời ưu tiên triển khai lực lượng tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, bao gồm các hệ thống vũ khí thông minh không người lái và nhiều năng lực tác chiến khác. Khu vực Biển Đông là trọng tâm của đợt điều chỉnh triển khai quân sự này. (ii) Dựa vào các đồng minh và đối tác, cơ chế an ninh 4 bên của nhóm “Bộ tứ” (QUAD) cũng như liên minh với Anh và Ôxtraylia (AUKUS) để xây dựng cơ chế hợp tác an ninh song phương và đa phương hẹp đan xen ở Biển Đông; coi việc xây dựng lại mạng lưới đồng minh và đối tác là một phần quan trọng trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, là biện pháp hữu hiệu để kiềm chế Trung Quốc. Việc tận dụng cơ chế QUAD và AUKUS để triển khai hợp tác trong các lĩnh vực như chia sẻ thông tin tình báo quân sự, tiến hành hoạt động quân sự chung, phối hợp chính sách, sử dụng căn cứ và cơ sở của nhau…. sẽ là cách thức quan trọng để Mỹ củng cố lợi thế so sánh của mình đối với Trung Quốc ở Biển Đông và kiềm chế nước này mở rộng không gian địa chính trị. (iii) Ký kết và dựa vào các thỏa thuận song phương với chính quyền Philippines, Malaysia, Indonesia, Đài Loan… để chia sẻ thông tin tình báo, hỗ trợ ngoại giao, định kỳ triển khai hoạt động tập trận quân sự chung, triển khai kế hoạch nâng cao năng lực, thăm các cảng và sử dụng căn cứ quân sự của một số nước trong khu vực… Cách làm này khiến cho sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Biển Đông và khu vực ngày càng nhiều và càng gần Trung Quốc hơn. Không loại trừ khả năng Mỹ sẽ hợp tác với các quốc gia và khu vực lân cận ở Biển Đông ký kết các thỏa thuận quan sát viên trên tàu như Mỹ đã làm với nhiều nước trên thế giới, để thực thi luật pháp tại vùng biển tranh chấp trên Biển Đông. Nếu điều này xảy ra thì đây sẽ là nhân tố mới, gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh Biển Đông trong thời gian tới. (iv) Lấy Hạm đội 3 và Hạm đội 7 của Quân đội Mỹ ở Biển Đông với biên đội tàu sân bay giữ vai trò chủ đạo, phối hợp chặt chẽ với lực lượng trinh sát trên không và lực lượng tấn công khác để từng bước “bình thường hóa” việc triển khai các hoạt động quân sự nhằm thể hiện sức mạnh “răn đe” đối với Trung Quốc.

Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao: Mỹ đang tích cực đẩy mạnh quan hệ với ASEAN và các nước đồng minh. Tháng 5/2022, Tổng thống Mỹ thăm Hàn Quốc và Nhật Bản, có 2 lần gặp gỡ các nhà lãnh đạo ASEAN; ký thỏa thuận nâng cấp lên quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với ASEAN; khôi phục các hiệp ước, đặc biệt là Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ – Philippines; các quan chức cao cấp khác của Mỹ, như Bộ trưởng Quốc phòng Austin, Ngoại trưởng Antony Blinken, Phó Tổng thống Mỹ Harris đã ráo riết tiến hành các “chuyến thăm ngoại giao” nhằm vào Đông Nam Á kể từ cuối tháng 7/2022; làm sống động các cơ chế do Mỹ lãnh đạo như QUAD, AUKUS để lôi kéo các nước ngoài khu vực như Anh, Pháp, Đức cùng nhau hợp tác nhằm hình thành “phiên bản NATO  tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”. Trong năm 2022. Đã có tới 11 chiến lược do các đồng minh của Mỹ công bố liên quan đến Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, trong đó nhấn mạnh vai trò của Biển Đông và ASEAN. Ngoài ra, các tàu chiến của Anh, Pháp và Đức đã lần lượt tiến vào Biển Đông, chứng tỏ Mỹ đang tập hợp lực lượng, thành lập các “nhóm nhỏ” tại Biển Đông để bao vây, kiềm chế Trung Quốc.

Có thể nhìn nhận, so với trước đây, dưới thời Tổng thống J.Biden, Mỹ đạt được nhiều thành công hơn, không chỉ tạo được thế đứng chân, mà còn công khai tăng cường các hoạt động quân sự ở khu vực và lôi kéo được nhiều nước can dự vào vấn đề Biển Đông.

Khó khăn, thách thức đặt ra cho các nước ASEAN trong xây dựng mối quan hệ với Mỹ và Trung Quốc để bảo vệ lợi ích trong quá trình phát triển đất nước

Thứ nhất, Mỹ và Trung Quốc là hai đối tác chiến lược lớn của ASEAN cả về kinh tế, chính trị – an ninh, nên sự phát triển của hai cường quốc sẽ tạo cơ hội cho các nước ASEAN phát triển, nhất là trên các lĩnh vực mà hai nước có thế mạnh như kinh tế, khoa học, công nghệ. Theo dự báo, thời gian tới tình hình Biển Đông vẫn sẽ có những biến động khó lường, cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung vẫn diễn ra quyết liệt, tác động rất lớn đến việc giải quyết vấn đề Biển Đông của ASEAN. Tuy cả Mỹ và Trung Quốc đều tuyên bố không gây sức ép “chọn bên” đối với ASEAN, song vẫn tìm cách lôi kéo các nước thành viên ủng hộ các quyết định của họ, trong đó có những quyết định liên quan đến Biển Đông. Trong bối cảnh như vậy, ASEAN có thể không “chọn bên”, nhưng lại thể hiện lập trường khác nhau trong từng sáng kiến mà Mỹ và Trung Quốc đưa ra, điều này chủ yếu xuất phát từ những tính toán lợi ích của mỗi nước. Làm sao để bảo vệ được lợi ích của từng nước để không rơi vào tình trạng đối đầu hoặc bị cô lập và tính trung tâm của khối đang là khó khăn, thách thức lớn nhất đặt ra cho ASEAN nói chung, từng thành viên nói riêng trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc liên quan đến vấn đề Biển Đông.

Thứ hai, các nước trong khu vực phải đối mặt với sự gia tăng nguy cơ bất ổn ở Biển Đông. Vừa hợp tác vừa cạnh tranh là xu hướng của quan hệ Mỹ – Trung ở Biển Đông. Tuy nhiên, việc cả Mỹ và Trung Quốc không ngừng gia tăng sức mạnh quân sự ở Biển Đông sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực đến an ninh khu vực. Nhiều vụ “chạm trán” trên không và trên biển giữa hai bên đã xảy ra chính là tín hiệu cảnh báo nguy cơ bất ổn có thể xảy ra bất cứ lúc nào nếu những người thực thi thiếu tính chuyên nghiệp và sự kiềm chế. Việc Mỹ chuyển giao vũ khí và hỗ trợ ngoại giao cho các nước ASEAN có tranh chấp ở Biển Đông cũng có thể làm tăng nguy cơ xung đột giữa các nước có tranh chấp do liên quan đến các hoạt động trên biển.

Thứ ba, là việc xây dựng trật tự khu vực ở Biển Đông dựa trên các quy tắc sẽ không mấy khả quan. Hiện nay, các bên đang đàm phán để đi đến ký kết một COC thực chất, hiệu quả, nhưng tiến trình này liên tục lỡ hẹn. Ngoài yếu tố Trung Quốc tìm cách giành được nhiều lợi thế nhất khi COC được ký kết, thì kể từ năm 2019, Mỹ đã có sự can dự và thay đổi lập trường về đàm phán COC, từ “thúc đẩy” đã chuyển sang bắt đầu “lợi dụng” để gây ảnh hưởng đối với tiến trình và nội dung đàm phán COC. Trong khi đó, các nước ASEAN có tranh chấp một mặt cân nhắc nhu cầu lợi ích của mình, nhưng mặt khác cũng bắt đầu đưa ra những lập luận về lập trường “không làm tổn hại đến lợi ích của bên thứ ba”. Hơn nữa, những thay đổi nhanh chóng và sâu sắc của cục diện quốc tế do cuộc xung đột Nga – Ucraina gây ra khiến cho Biển Đông – chiến trường của các nước lớn, khó tránh khỏi bị tác động. Do đó, đàm phán COC sẽ còn gặp phải nhiều khó khăn, thách thức.

Thứ tư, “cạnh tranh” thay thế “hợp tác” có thể sẽ trở thành xu hướng chính của những diễn biến ở Biển Đông trong tương lai, gây ra nhiều bất lợi cho các nước trong khu vực này. Hợp tác thiết thực, hiệu quả trên Biển Đông trong các lĩnh vực như thực thi pháp luật, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học, tìm kiếm cứu nạn và kiểm soát rủi ro…là mong muốn của các bên để phát triển. Thế nhưng, những gì mà cả Mỹ và Trung Quốc thực thi ở Biển Đông gần đây, nhất là việc hai nước triển khai sức mạnh quân sự cho thấy, yếu tố cạnh tranh đang lấn lướt hơn so với hợp tác. Điều này sẽ tạo nhiều khó khăn, thách thức đối với tiến trình hợp tác trên biển đã được khởi động giữa ASEAN với Trung Quốc và các đối tác khác, cũng như việc hợp tác trong các lĩnh vực như khai thác dầu khí, bảo vệ nguồn cá và thực thi pháp luật tại khu vực tranh chấp giữa các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.

Rõ ràng, Biển Đông đang ngày càng nằm trong “vòng xoáy” của cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung với nhiều cách thức lấn lướt mới. Đây là cuộc cạnh tranh giữa một cường quốc hàng đầu thế giới với một cường quốc đang vươn lên mạnh mẽ, diễn ra trên nhiều lĩnh vực, nhằm giành quyền chi phối các hoạt động tại Biển Đông. Tuy không phải là cạnh tranh giữa “hai phe” hay “hai cực” như trong Chiến tranh Lạnh trước đây, nhưng cả Mỹ và Trung Quốc đang tìm cách lôi kéo các nước trong, ngoài khu vực tham gia vào các hoạt động của họ ở Biển Đông. Mặc dù, các nước ASEAN đã có nhiều chính sách “uyển chuyển” trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc để bảo vệ lợi ích từng nước và tính trung tâm của Khối. Song, với cách thức lấn lướt mới này trong cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung ở Biển Đông, các nước trong khu vực chắc chắn sẽ còn gặp nhiều khó khăn, thách thức hơn nữa trong bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và con đường phát triển của mình khi mở rộng quan hệ với hai cường quốc này./.

                                                                               Nga Khê

RELATED ARTICLES

Tin mới