Trong khi Mỹ tăng cường cam kết an ninh tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, Tổng thư ký Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) Mark Rutte hy vọng liên minh quân sự này cũng sẽ tăng cường cam kết bằng cách hỗ trợ Washington “triển khai sức mạnh tập thể” tại khu vực có tầm quan trọng chiến lược này, trong bối cảnh các mối đe dọa ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau.
Trong khi Mỹ tăng cường cam kết an ninh tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, Tổng thư ký Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) Mark Rutte hy vọng liên minh quân sự này cũng sẽ tăng cường cam kết bằng cách hỗ trợ Washington “triển khai sức mạnh tập thể” tại khu vực có tầm quan trọng chiến lược này, trong bối cảnh các mối đe dọa ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau.

Trong một cuộc phỏng vấn, ông Mark Rutte, Tổng thư ký NATO, cho biết các thành viên đều đồng thuận về việc NATO sẽ tham gia nhiều hơn vào khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, nhưng chưa tiết lộ chi tiết. Ông cũng nhấn mạnh Mỹ hiện đóng góp khoảng một nửa GDP quốc phòng của liên minh, vì vậy hợp tác với các thành viên khác sẽ tăng cường sức mạnh toàn cầu của Mỹ, bao gồm cả tại khu vực này. Một quan chức cấp cao của NATO cho biết trong cuộc hội đàm giữa Tổng thư ký NATO Mark Rutte và Tổng thống Mỹ Donald Trump tại Mỹ vào tháng 3/2025, ông Trump cho rằng việc tăng cường hợp tác giữa NATO và các nước Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là vô cùng quan trọng.
Ông Mark Rutte cho biết: “Đây chính xác là điều mà Tổng thống và chính quyền Mỹ muốn chúng tôi làm, và đó cũng là lý do tại sao chuyến thăm này (tới Nhật Bản) lại quan trọng đến vậy”. Giới phân tích nhận định việc Tổng thống Mỹ Trump yêu cầu các nước châu Âu tăng chi phí quốc phòng, chia sẻ trách nhiệm với Mỹ hay nỗ lực giải quyết cuộc chiến ở Ukraine cũng là để các nước châu Âu – thành viên NATO – có thể tập trung sức lực vào việc hỗ trợ Mỹ ngăn chặn Trung Quốc ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Một số thành viên NATO đã có chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương riêng của mình và mở rộng hợp tác an ninh với các đối tác đối với khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Điều này ít nhất một phần được thúc đẩy bởi nỗi lo sợ rằng một cuộc khủng hoảng tương tự như cuộc chiến ở Ukraine có thể bùng nổ ở châu Á, cho dù là do diễn biến ở Biển Đông hay liên quan đến Đài Loan. Liên minh châu Âu (EU) – với hầu hết các thành viên cũng là một phần của NATO – cũng thông qua chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương từ năm 2021, theo đó EU vạch ra những nỗ lực nhằm tăng cường sự hiện diện ở khu vực này. Một số thành viên chủ chốt của NATO ở châu Âu như Anh, Pháp, Đức đã có chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương riêng.
Brussels (trụ sở NATO) đã ký kết quan hệ đối tác an ninh và quốc phòng với Nhật Bản và Hàn Quốc vào năm 2024. Tổng thư ký Mark Rutte thực hiện chuyến công du đầu tiên tới châu Á với mong muốn đưa mối quan hệ của liên minh với 4 đối tác Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (IP4) – Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand – lên một tầm cao mới thông qua tăng cường hợp tác công nghiệp quốc phòng và chia sẻ thông tin.
Ông Mark Rutte nhấn mạnh: “Khi chúng ta nhìn vào Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, chúng ta thực sự nhìn thông qua lăng kính của 4 đối tác”. Ông Rutte nhấn mạnh cần tăng cường hợp tác công nghiệp và cùng đánh giá các vấn đề như sự tham gia của quân đội Triều Tiên hỗ trợ Nga và đầu tư lớn của Trung Quốc vào công nghiệp quốc phòng.
Tổng thư ký NATO cũng lưu ý rằng, là nền kinh tế lớn nhất trong số 4 nền kinh tế IP4, vai trò của Nhật Bản trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của NATO là “vô cùng quan trọng”. Hai bên không chỉ chia sẻ các giá trị chung và lợi ích địa chiến lược – như được thể hiện rõ qua sự hỗ trợ kinh tế và ngoại giao đáng kể của Tokyo dành cho Ukraine, Nhật Bản cũng là quốc gia duy nhất trong Nhóm G7 không tham gia NATO. Điều này có nghĩa là việc thắt chặt quan hệ với một đối tác quan trọng như vậy có tầm quan trọng sống còn đối với liên minh quân sự phương Tây.
Bên cạnh sự thay đổi của Washington, một yếu tố quan trọng khác đằng sau động thái tăng cường can dự vào Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của NATO chính là mối liên hệ ngày càng tăng giữa vấn đề an ninh của khu vực này và khu vực Châu Âu – Đại Tây Dương. Vấn đề này không chỉ liên quan đến việc Bắc Kinh ủng hộ Nga trong xung đột tại Ukraine mà còn phản ánh quá trình hiện đại hóa quân sự nhanh chóng và những mục tiêu lãnh thổ của Trung Quốc, đặc biệt là tuyên bố chủ quyền đối với Đài Loan cũng như việc tiếp tục thúc đẩy yêu sách biển phi pháp đối với phần lớn diện tích Biển Đông theo “Đường chín đoạn”, mặc dù Toà Trọng tài Thường trực trong vụ kiện Biển Đông năm 2016 đã ra phán quyết bác bỏ các yêu sách này của Bắc Kinh.
Đề cập đến các động thái quân sự của Bắc Kinh, ông Mark Rutte thậm chí còn nói rằng, cá nhân tôi “ngày càng coi Trung Quốc là mối đe dọa”. Tổng thư ký NATO cho biết: “Khi bạn nhìn vào sự phát triển của cơ sở công nghiệp quốc phòng tại Trung Quốc, nhìn vào thực tế rằng hiện tại họ có nhiều tàu hải quân hơn Mỹ, rằng họ sẽ sở hữu 1.000 đầu đạn hạt nhân vào năm 2030, thì hoàn toàn rõ ràng là chúng ta không thể ngây thơ về Trung Quốc”. Để ứng phó, ông lưu ý rằng điều quan trọng là liên minh NATO phải hợp tác với Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand, đồng thời ủng hộ Mỹ trong chiến lược xoay trục sang châu Á.
Tổng thư ký NATO cảnh báo điều này rất quan trọng vì mối liên hệ an ninh giữa hai khu vực cũng có thể được cảm nhận ở các khu vực khác. Ông cũng cho rằng bất kỳ thỏa thuận tiềm năng nào nhằm chấm dứt chiến tranh Ukraine cũng sẽ có tác động đến Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Ví dụ, các cuộc đàm phán hòa bình ở châu Âu cũng sẽ được nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình theo dõi chặt chẽ. Ông cho rằng ông Tập Cận Bình “sẽ đánh giá… ai sẽ giành chiến thắng, liệu đó sẽ là phương Tây hay Nga”. Nếu là Nga, điều này có thể mang lại cho Tập Cận Bình “cảm hứng theo đuổi một số tham vọng lãnh thổ của riêng mình”. Đây là mối đe doạ nghiêm trọng đối với Biển Đông và Đài Loan.
Nhật Bản và NATO cùng chia sẻ mối quan ngại về Trung Quốc. Tổng thư ký Mark Rutte cảnh báo “chúng ta không thể ngây thơ về Trung Quốc”; “việc tăng cường lực lượng vũ trang và đầu tư vào ngành công nghiệp quốc phòng và năng lực của họ (Trung Quốc) là đáng kinh ngạc”. Điều này đòi hỏi hai bên “thực sự phải hợp tác để đánh giá những gì đang xảy ra”. Để thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác với NATO, trong đó có việc thiết lập một hệ thống chia sẻ thông tin mật với liên minh, Nhật Bản bổ nhiệm một Đại sứ riêng tại NATO (trước đây là vị trí kiêm nhiệm cả hai chức vụ: Đại sứ tại liên minh và Bỉ) vào tháng 1/2025.
Trong mục tiêu hướng tới Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của NATO, Nhật Bản là đối tác hàng đầu bởi đây là đối tác lâu đời nhất của NATO ngoài châu Âu; Nhật Bản đã xây dựng mối quan hệ gần gũi nhất với NATO trong số 4 đối tác chính ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương IP4 (Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand). Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Takeshi Iwaya đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước NATO đầu tháng 4 vừa rồi và tuyên bố ý định của Nhật Bản là đưa quan hệ lên “mức độ cao hơn nữa” để phối hợp giải quyết các thách thức an ninh vượt ra ngoài khu vực. Những phát biểu trên đây được Tổng thư ký Mark Rutte đưa ra ngay sau khi Hội nghị thượng đỉnh các Bộ trưởng Ngoại giao NATO kết thúc hôm 4/4/2025. Trong số những quốc gia và vùng lãnh thổ ở bên ngoài châu Âu, Nhật Bản là quốc gia cho có được mối quan hệ hợp tác chính trị, quân sự, quốc phòng và an ninh chặt chẽ nhất và được thể chế hoá rất sâu rộng với NATO. Nhật Bản là cửa ngõ thích hợp nhất đối với NATO trong việc tiếp cận, xâm nhập và gây dựng ảnh hưởng, vai trò ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Năm 2023, Nhật Bản và NATO đã nhất trí mở rộng hợp tác Chương trình Đối tác được Thiết kế riêng (ITPP). ITPP xác định 3 mục tiêu chiến lược: tăng cường đối thoại và tham vấn; nâng cao khả năng phục hồi và thúc đẩy khả năng tương tác. Chương trình cũng cho phép họ hợp tác trong các lĩnh vực như không gian mạng, không gian, công nghệ mới và chống lại thông tin sai lệch. Trong chuyến thăm Nhật, Tổng thư ký NATO Rutte đã đến thăm các cơ sở sản xuất quốc phòng Nhật Bản, mục tiêu là tìm cách để các doanh nghiệp quốc phòng NATO và Nhật Bản trở nên “liên kết chặt chẽ hơn nữa”; và cách để thực hiện điều đó là thiết lập các tiêu chuẩn cho phép NATO và quân đội các đối tác trao đổi vũ khí.
Việc NATO hướng tới Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và tăng cường hợp tác quân sự với Nhật Bản và các đối tác khu vực khác như Hàn Quốc, Australia và New Zealand sẽ tạo ra những tác động tích cực đối với khu vực nói chung và Biển Đông nói riêng, cụ thể là:
Thứ nhất, việc NATO hướng sang Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương góp phần tạo thêm sức mạnh trong việc chống lại các thách thức từ Trung Quốc, ngăn chặn sự mở rộng bành trướng của Bắc Kinh ở khu vực. NATO có quan điểm của các nước phương Tây về vấn đề Biển Đông, theo đó cần duy trì trật tự dựa trên luật lệ và bảo đảm tự do, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông. NATO đã từng nhiều lần lên án các hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông. Cựu Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg khi còn đương nhiệm đã mạnh mẽ phê phán trực diện Trung Quốc khi nêu rõ: “Chúng ta phải nhận thức rõ ràng những thách thức đi kèm với sự trỗi dậy của Trung Quốc”; sự trỗi dậy của Trung Quốc “có tác động thực sự đối với an ninh của chúng ta”. Ông Jens Stoltenberg nhấn mạnh: “Chúng ta cũng chứng kiến những động thái quyết liệt hơn của Bắc Kinh nhằm thách thức trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Họ đang công khai đe dọa Đài Loan, hăm dọa các nước láng giềng trong khu vực và cản trở tự do hàng hải ở Biển Đông”; khẳng định: “NATO muốn tương tác gần hơn với những người bạn và đối tác trên khắp thế giới, bởi đó là cách tốt nhất để bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, bảo vệ xã hội và nền dân chủ chúng ta”.
Thứ hai, Nhật Bản là nước luôn thể hiện thái độ mạnh mẽ trước các hành vi gây hấn hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, đông thời có quan hệ hợp tác chặt chẽ với các nước ven Biển Đông. Nhật Bản gần đây đã thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác an ninh quốc phòng với Philippines, Việt Nam…; hỗ trợ các nước này nâng cao năng lực của lực lượng tuần duyên để thực thi pháp luật trên biển. Việc NATO tăng cường hợp tác công nghiệp quốc phòng với Nhật Bản không chỉ có ý nghĩa riêng đối với an ninh Nhật Bản mà còn tác động tích cực tới an ninh khu vực, trong đó có Biển Đông. Nhật Bản có thể trở thành cầu nối để NATO có những đóng góp vào việc duy trì hoà bình ổn định, tự do, an ninh hàng hải, hàng không ở Biển Đông, thúc đẩy trật tự dựa trên pháp luật.
Thứ ba, NATO hướng tới Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là một cách thức chia sẻ trách nhiệm với Mỹ trong việc ngăn chặn, kiềm chề Trung Quốc. Điều này thể hiện rõ việc các nước thành viên NATO đáp ứng lời kêu gọi của Tổng thống Mỹ Trump, giúp Mỹ không bị “đơn độc” trong việc triển khai chiến lược đối phó Bắc Kinh. Như đã nêu trên, việc NATO hướng sang Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương sẽ làm sức mạnh của Mỹ đối phó lại Trung Quốc ở khu vực này tăng lên gấp đôi. Lúc này, Trung Quốc phải đối mặt không chỉ với Mỹ và các đồng minh tại khu vực châu Á mà còn với các thành viên của NATO. Việc NATO mở rộng sự hiện diện tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương được xem là một yếu tố quan trọng nhằm kiểm soát sự gia tăng ảnh hưởng của Bắc Kinh tại Biển Đông cũng như toàn khu vực. Tuy nhiên, điều này có thể dẫn tới cuộc chạy đua vũ trang mới ở khu vực, đây là hệ luỵ gây căng thẳng ở khu vực./.