Khoản nợ của Trung Quốc và tình hình kinh tế nước này

Nhiều người hay nghĩ rằng Mỹ mới là ông vua nợ nần với khoản nợ công khổng lồ, nhưng thực ra nếu đào sâu, Trung Quốc mới chính là ông trùm của nợ thật sự. Theo số liệu phân tích, nợ của Trung Quốc có thể cao gấp 3 lần so với Mỹ nếu tính theo tỷ lệ GDP. Hãy cùng dựa vào các dữ liệu từ các tổ chức uy tín như IMF, World Bank và một số nghiên cứu độc lập để làm rõ vấn đề.
Nợ công của Mỹ chiếm 12% GDP
Đầu tiên, nói về tình hình nợ của Mỹ để làm nền tảng so sánh. Mỹ đang có khoản nợ công rất lớn, chiếm đến 123% GDP và lãi suất trả nợ đang trở thành một trong những khoản chi lớn nhất của chính phủ Mỹ. Mỗi năm, Mỹ phải vay thêm tiền để bù đắp thâm hụt trong ngân sách và điều này đã khiến nhiều người lo lắng về tương lai của nước này. Tuy nhiên, Mỹ có lợi thế lớn vì đồng đô la là tiền dự trữ của cả thế giới. Thế nên Mỹ có không gian để vay mượn mà không dễ bị khủng hoảng ngay lập tức. Nhưng nợ vẫn là nợ, cuối cùng vẫn phải trả. Có thể là qua thuế cao hơn, lạm phát hoặc thậm chí là suy thoái kinh tế.
Trung Quốc, phân tán nợ qua nhiều cấp chính quyền
Đến với Trung Quốc, nhìn bên ngoài, tình hình Trung Quốc có vẻ tốt đẹp hơn. Nợ công chính thức của Trung Quốc chỉ khoảng 84% GDP, thấp hơn Mỹ (123% GDP) và thấp hơn cả Nhật Bản (236% GDP). Hơn nữa, Trung Quốc còn là một trong những chủ nợ lớn nhất thế giới, nắm giữ hàng trăm tỷ đô la trái phiếu Mỹ. Trong các cuộc đàm phán thương mại Mỹ – Trung, Trung Quốc đã từng dùng khoản nợ này như là một vũ khí bí mật. Nhìn qua, Mỹ giống như một kẻ vay nợ rất liều lĩnh, còn Trung Quốc là nhà cho vay tiết kiệm của tương lai. Thế nhưng sự thật lại không hề đơn giản như vậy. Nếu đào sâu, nợ của Trung Quốc thực ra lại cao hơn rất nhiều và có thể lên đến 300% GDP, gấp 3 lần Mỹ. Tại sao lại nhiều như vậy? Vì nợ của Trung Quốc được ẩn giấu rất khéo, không giống như Mỹ, nơi chủ yếu tập trung ở chính phủ liên bang (120% GDP) và nợ của các địa phương (12% GDP). Còn Trung Quốc phân tán nợ qua nhiều cấp độ chính quyền và các thực thể đặc biệt.
Ví dụ, các chính quyền địa phương ở Trung Quốc có động lực vay nợ lớn để xây dựng dự án hạ tầng. Theo ước tính năm 2023, tỷ lệ nợ của các tỉnh và địa phương ở Trung Quốc đã lên đến 12.600 nghìn tỷ USD (76% GDP). Kết hợp với nợ Trung ương, tổng nợ của chính phủ Trung Quốc đã là 160% GDP, cao hơn Mỹ khoảng 30%. Nhưng chưa hết, còn có các doanh nghiệp nhà nước, những công ty vừa hoạt động như doanh nghiệp tư nhân vừa thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ. Họ vay nợ để xây dựng cơ sở hạ tầng từ sân bay Bắc Kinh đến các dự án nước ngoài như thủ đô mới ở Ai Cập. Một ví dụ điển hình là Công ty China State Construction Energy Corporation, công ty xây dựng lớn nhất thế giới với doanh thu 320 tỷ USD. Nó thuộc sở hữu nhà nước, vay nợ để thực hiện các dự án chiến lược nhưng khoản nợ này không được tính vào nợ chính phủ chính thức.
Theo nghiên cứu của Đại học Stanford, Trung Quốc có ít nhất 391.000 doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn và hơn 1 triệu công ty có cổ phần sở hữu nhà nước. Tổng nợ của các công ty này là khoảng 30.000 tỷ USD. Nếu các công ty này vỡ nợ, chính phủ phải can thiệp, bởi vậy thực chất đây là nợ ngầm của nhà nước. Kết hợp tất cả lại, tổng nợ tổng thể của Trung Quốc qua chính phủ, ở địa phương và các doanh nghiệp nhà nước đã vượt quá 300% GDP và tình hình còn tệ hơn nếu xem xét GDP thực tế. Nhiều chuyên gia nghi ngờ con số GDP chính thức của Trung Quốc vì dữ liệu địa phương thường được làm đẹp để đạt chỉ tiêu. Các nghiên cứu độc lập ước tính là GDP của Trung Quốc có thể nhỏ hơn 20%, thậm chí là 60% so với báo cáo, khiến cho tỷ lệ nợ trên GDP lên đến 450%, gấp 3 lần nước Mỹ. Đây là một mức nợ rất hiếm thấy.
Vậy tại sao Trung Quốc có thể vay nhiều như vậy mà không bị phát nổ? Một phần nhờ vào cơ chế kinh tế khác biệt. Ở Mỹ, lãi suất trái phiếu 10 năm khoảng 4,5% nhưng ở Trung Quốc chỉ 1,7%, thấp hơn 3 lần dù xếp hạng tín dụng thấp hơn A+ so với AA+ của Mỹ. Lý do là gì? Đó là kinh tế Trung Quốc có sự can thiệp mạnh mẽ từ chính phủ. Trung Quốc kiểm soát vốn nghiêm ngặt nên nhà đầu tư trong nước không dễ mua trái phiếu Mỹ. Hầu hết ngân hàng là nhà nước nên chính phủ có thể ép mua trái phiếu nội địa với lãi suất thấp. Hơn nữa, các lựa chọn đầu tư khác hạn chế như thị trường chứng khoán Trung Quốc tăng chưa đến 100%. Trong khi cùng thời gian đó, Mỹ đã tăng đến 300%. Nhiều công ty niêm yết bị chính phủ chi phối, ưu tiên các mục tiêu chính trị hơn là lợi nhuận cổ đông. Các quy định khắc nghiệt như là cấm niêm yết Ant group của Jack Ma khiến thị trường rủi ro cao.
Thay vào đó, người dân đổ tiền rất nhiều và bất động sản là tài sản lớn nhất thế giới. Điều này tạo ra một quả bong bóng khổng lồ. Giá nhà ở Bắc Kinh đã cao gấp 35 lần thu nhập trung bình so với 19 lần ở London. Hộ gia đình vay nợ để mua nhà dẫn đến nợ hộ gia đình cao nhưng tiêu dùng chỉ đạt 39% GDP so với Mỹ (68% GDP) và trung bình thế giới (56% GDP). Người Trung Quốc tiết kiệm nhiều vì thiếu lựa chọn đầu tư dẫn đến lạm phát thấp ở hàng tiêu dùng. Trung Quốc rất giỏi sản xuất nhưng lại kém tiêu thụ. Thế nên Trung Quốc chọn xuất khẩu để bù đắp nhưng căng thẳng thương mại và đối thủ mới như Việt Nam sẽ có thể làm gián đoạn chiến lược này.
Để kích thích kinh tế, Trung Quốc đã in tiền ồ ạt từ năm 2000 – 2019. Cung tiền Trung Quốc đã tăng gấp 16 lần, so với 3 lần ở Mỹ. Trung Quốc dùng ngân hàng nhà nước tạo ra tiền cho chính quyền vay và các doanh nghiệp nhà nước vay. Bình thường, ít nhiều tiền sẽ gây lạm phát nhưng Trung Quốc chưa xảy ra nhờ tiêu dùng thấp. Tuy nhiên, bong bóng đã phồng lên ở mảng bất động sản. Không phải là hàng tiêu dùng nên bong bóng vỡ hoặc lạm phát ở bất động sản thì nợ khổng lồ sẽ trở thành gánh nặng. Nhưng Trung Quốc cũng có cái lợi thế là không như Mỹ. Tài sản của chính phủ Mỹ chỉ 5.600 tỷ USD, nợ âm 40.000 tỷ USD. Còn Trung Quốc sở hữu tài sản rất lớn, đất đai cho thuê dài hạn, các doanh nghiệp nhà nước có thể bán cổ phần rồi tiện ích công cộng. Ước tính tài sản của chính phủ Trung Quốc còn khoảng 20.000 – 40.000 tỷ USD sau khi đã trừ nợ. Nợ chủ yếu là nội bộ, lãi suất thấp, giúp giảm gánh nặng trả nợ. Hơn nữa, nợ dùng để xây tài sản nhà nước dễ thu hồi vốn hơn so với Mỹ, là nợ dùng để kích thích các hộ gia đình.
Dù vậy rủi ro vẫn rất lớn. Nợ của Trung Quốc lên tới 300% GDP, vượt qua ngưỡng nguy hiểm bình thường là 120 – 150% là người ta đã sợ lắm rồi. Phân tán nợ qua các địa phương và các doanh nghiệp khiến cho lãi suất cao hơn ở cấp dưới. Tóm lại, nợ Trung Quốc không phải là thảm họa sắp tới, nhưng mà là vấn đề nghiêm trọng. Trung Quốc có thể kiểm soát nhờ cơ chế đặc biệt, nhưng nếu bong bóng bất động sản vỡ hoặc căng thẳng thương mại gia tăng, mọi thứ có thể sụp đổ. Kinh tế Trung Quốc và Mỹ liên kết chặt chẽ với nhau. Trung Quốc mua nợ của Mỹ nhưng nợ tự thân lại còn lớn hơn. Sẽ không có kẻ thắng người thua nếu xung đột thương mại xảy rc, mà chỉ có thua thiệt cho cả hai bên. Mà nếu thiệt hại, phần lớn người dân sẽ là người phải gánh chịu hậu quả.
T.P