Trong bối cảnh tình hình căng thẳng trên Biển Đông ngày càng leo thang do Trung Quốc gia tăng các hoạt động thúc đẩy yêu sách chủ quyền biển thì vào những tháng cuối năm 2024, tại khu vực lại diễn ra một loạt hội nghị liên quan đến ASEAN và Trung Quốc như Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 57 (AMM-57), họp từ 25 – 27/7/2024; Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh lần thứ 11, họp từ 12 – 14/9/2024; Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 44 và 45; rồi cả các Hội nghị Cấp cao thường niên giữa ASEAN với các đối tác, được tổ chức tại Viêng Chăn/Lào từ 09 – 11/11/2024…
Những tưởng các động thái này sẽ tạo ra được “điểm sáng” nào đó cho việc giải quyết tranh chấp chủ quyền giữa các bên ở Biển Đông, nhất là những vấn đề “nóng”, quan trọng như tranh chấp lãnh thổ, khác biệt về yêu sách biển, cùng với việc quân sự hóa trên biển… sẽ được các hội nghị quan tâm thảo luận và tìm ra hướng giải quyết. Đáng tiếc rằng, đúng là các vấn đề trên được thảo luận nhiều, nhưng những “điểm sáng” được mong đợi cho việc giải quyết chúng thì lại quá ít, trong khi những tranh cãi lại nhiều hơn. Bên cạnh đó, lại xuất hiện những nhân tố bên ngoài mới can dự vào với đầy bất trắc. Vì thế, việc giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông xem ra vẫn chưa thể tìm ra lối thoát trong tương lai gần.
Một vài “điểm sáng” thu hút sự quan tâm và nhận được sự đồng thuận cao của dư luận
Tại các hội nghị trên, xuất hiện những “điểm sáng” liên quan đến vấn đề Biển Đông, thu hút sự quan tâm và nhận được sự đồng thuận cao của các đại biểu dự hội nghị, đó là: (i) Trong các cuộc thảo luận tại AMM-57, tất cả 10 nước thành viên ASEAN đều có chung nhận thức quan trọng rằng, các nước ASEAN không thể để bị lôi kéo vào cuộc cạnh tranh địa chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc tại châu Á – Thái Bình Dương, không thể ‘chọn” bất cứ bên nào khi mà cả Trung Quốc và Mỹ đều đang tìm cách mở rộng ảnh hưởng trong khu vực. Sau các cuộc họp, Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia Retno Marsudi cho biết, các nước ASEAN nhấn mạnh rằng, không nên là đại diện cho bất kỳ cường quốc nào, nếu không sẽ rất khó để ASEAN trở thành “điểm tựa cho sự ổn định và hòa bình trong khu vực”. Ông Marsudi nhấn mạnh: “Một bước đi sai lầm ở Biển Đông, sẽ biến một đám cháy nhỏ thành một cơn bão lửa khủng khiếp”. (ii) Hiện nay, khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã thực sự trở thành một trung tâm phát triển năng động của thế giới, ngày càng thu hút sự quan tâm của các nước ngoài khu vực. Tuy nhiên, cũng như nhiều nơi trên thế giới, tại khu vực này, vấn đề tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ giữa các quốc gia vẫn còn nan giải, nhất là chủ quyền trên biển, trong đó có Biển Đông. Vì thế, trong bài phát biểu tại Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh lần thứ 11, Đại tướng Phan Văn Giang – Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam khẳng định: Trước sau như một, Việt Nam kiên trì giải quyết mọi vướng mắc, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, lợi ích chính đáng của các quốc gia; tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), thực thi nghiêm túc các cam kết quốc tế, khu vực như Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); ủng hộ việc thiết lập các cam kết pháp lý rõ ràng, thực chất, hiệu quả hơn như Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) mà ASEAN và Trung Quốc đang mong sớm ký kết. Để có thể hợp tác thực chất và hiệu quả trong giải quyết các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống đang diễn biến hết sức phức tạp hiện nay, các quốc gia cần phát triển quan hệ hợp tác trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc, giải quyết các tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp, cam kết quốc tế và khu vực, không đe dọa sử dụng vũ lực hay sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Trong hợp tác giải quyết các vấn đề an ninh, các nước lớn có vai trò rất quan trọng, cần được phát huy đầy đủ trách nhiệm và hiệu quả trên thực tế. Bài phát biểu trên của Việt Nam đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các đại biểu tham dự diễn đàn, cho rằng chỉ có đi theo phương hướng này thì mới khuyến khích được các bên liên quan tăng cường giao lưu và hợp tác bình đẳng, tìm kiếm con đường an ninh kiểu mới, tăng cường đối thoại chứ không phải là đối đầu, kết bạn chứ không phải kết đồng minh, đôi bên cùng có lợi chứ không phải được mất ngang nhau trong giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. (iii) Dù còn nhiều tranh cãi, nhưng trong Tuyên bố chung của Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 44, 45, các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc tiếp tục kêu gọi thực hiện đầy đủ DOC và đẩy mạnh nỗ lực đàm phán nhằm sớm đạt được COC thực chất và hiệu quả, đưa Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Rõ ràng, trong nhận thức chung thì nước nào cũng hiểu rõ vấn đề có lợi từ các “điểm sáng” trên, nhưng để “tiến thêm nữa” nhằm tạo ra nhiều “điểm sáng” hơn thì lợi ích riêng của mỗi nước lại che mờ quyết tâm và hành động của họ, khiến cho nhiều “điểm tối” vẫn còn hiện hữu.
Những rào cản khiến cho việc tìm lối thoát trong giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông tiếp tục chồng chất khó khăn
Mặc dù, các hội nghị nêu trên đưa ra những chủ đề rất “kêu”, hứa hẹn nhiều tương lai tốt đẹp cho khu vực như: “Tăng cường kết nối và tự cường ASEAN” là chủ đề của hội nghị AMM-57 và hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 44, 45 và các hội nghị cấp cao liên quan; “Hợp tác an ninh và sự phồn vinh, ổn định của khu vực châu Á – Thái Bình Dương” là chủ đề của Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh lần thứ 11, nhưng ngay trong các hội nghị và bên lề các hội nghị đó, vấn đề giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông vẫn vấp phải khá nhiều rào cản, chưa xuất hiện tín hiệu khả quan nào. Đó là:
Thứ nhất, nội bộ ASEAN vẫn có sự chia rẽ, thiếu đồng thuận.
Trước hết là phản ứng thiếu thống nhất hay khác nhau của ASEAN đối với các hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Tại hội nghị AMM-57, giới quan sát vẫn nhận ra và cho rằng, nội bộ ASEAN vẫn có sự chia rẽ, thiếu đồng thuận trong việc có nên hay không đưa các tuyên bố chủ quyền và các hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông thời gian qua vào trong Tuyên bố chung sau hội nghị. Ví dụ: Trong các cuộc họp ngày 25/7/2024, Philippines đã thúc đẩy đưa vụ va chạm giữa tàu Hải cảnh Trung Quốc và tàu công vụ Philippines diễn ra hồi giữa tháng 6/2024 vào trong Tuyên bố chung cuối các cuộc họp. Tuy nhiên, hai nước có quan hệ gần gũi với Trung Quốc là Campuchia và Lào, lại không có lợi ích gì ở Biển Đông so với các lợi ích mà Trung Quốc mang lại cho họ, đã phản đối ý định này. Trước bối cảnh có những rạn nứt trong nội bộ liên quan tới vấn đề Biển Đông do sự lôi kéo, chi phối của Trung Quốc, nên Tuyên bố chung của AMM-57 ngày 27/7/2024 đã không nêu thẳng thắn, trực tiếp về những căng thẳng diễn ra xung quanh bãi Cỏ Mây giữa Trung Quốc và Philippines, mà chỉ đề cập một cách chung chung rằng, Bộ trưởng Ngoại giao một số nước ‘‘bày tỏ quan ngại về các hoạt động cải tạo đất, một số hoạt động, sự cố nghiêm trọng trong khu vực, bao gồm các hành động gây nguy hiểm cho an toàn của người, gây thiệt hại cho môi trường biển, làm xói mòn lòng tin, có thể làm gia tăng căng thẳng, gây tác hại đến hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực”. Ngoại trưởng các nước ASEAN cũng nhất trí chưa nêu các biện pháp cụ thể nhằm làm giảm căng thẳng ở Biển Đông và ngăn ngừa các tai nạn cũng như những tính toán sai lầm, đồng thời kêu gọi tất cả các bên liên quan dừng các hành động có thể làm phức tạp và leo thang tranh chấp. Giới chuyên gia khu vực đánh giá, mặc dù cuối cùng AMM-57 cũng ra được Tuyên bố chung, trong đó vấn đề Biển Đông được đề cập với nội dung mà các bên có thể chấp nhận được, không để xảy ra tình trạng như cách đây 12 năm khi AMM-45 tại Phnom Pênh/Campuchia không ra được Tuyên bố chung do sự bất đồng giữa các nước trong vấn đề Biển Đông, nhưng rõ ràng nội bộ ASEAN vẫn có sự chia rẽ, thiếu đồng thuận. Theo dư luận, sở dĩ nước chủ nhà hội nghị là Lào không để xảy ra tình trạng như năm 2012, một phần là do nước này có quan hệ đặc biệt với Việt Nam – quốc gia có các lợi ích thiết thân quan trọng và đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông, nên Lào không thể bỏ qua các quan tâm và lợi ích của Việt Nam ở vùng biển này. Do đó, vấn đề Biển Đông tuy được đưa ra thảo luận nhiều và đã được đưa vào trong tuyên bố chung của các hội nghị do ASEAN tổ chức trong năm 2024, song ý tứ và ngữ nghĩa thì vẫn còn chung chung, chưa có gì mới mẻ.
Tiếp theo, về đàm phán COC: Đây là “vướng mắc” lớn nhất trong quan hệ ASEAN – Trung Quốc nên cũng là chủ đề được thảo luận nổi bật trong AMM-57 và Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 44 và 45. Trong hơn hai thập kỷ qua, Trung Quốc và ASEAN đã nhiều lần đàm phán về COC – một hướng đi nhằm làm giảm bớt căng thẳng trên Biển Đông thông qua việc xác định các quy tắc và trách nhiệm cho các quốc gia có liên quan. Song cho đến tận năm 2024 này, các hội nghị của ASEAN diễn ra trong năm vẫn chưa đưa ra được tín hiệu gì mang tính đột phá; nội bộ ASEAN vẫn tiếp tục có sự chia rẽ, bất đồng. Các quốc gia như Việt Nam và Philippines, vốn thường xuyên phải đối đầu với Trung Quốc ở Biển Đông, mong muốn có một thỏa thuận mang tính ràng buộc về mặt pháp lý, còn các quốc gia trong ASEAN không có yêu sách chủ quyền, như Campuchia và Lào, thì vẫn còn “quan ngại và do dự” vì sợ nếu “khiêu khích” hay làm mất lòng với Trung Quốc thì sẽ “chuốc lấy” ảnh hưởng đáng kể về kinh tế cho bản thân. Ông Greg Poling – Giám đốc Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế của Mỹ đánh giá: “ASEAN vẫn khá chia rẽ vì những nước không có yêu sách chủ quyền trên Biển Đông không thực sự đầu tư vào việc giải quyết hoặc quản lý vấn đề này, nên sẽ không mạo hiểm làm Trung Quốc bất bình. Điều này đã làm cho các bên yêu sách khác, đặc biệt là Philippines và Việt Nam, thường phải đơn độc giữ vững lập trường trong các cuộc đàm phán với Trung Quốc”. Đồng quan điểm với ông Greg Poling, ông Luigi Joble – Giảng viên tại Đại học De La Salle/Philippines cũng cho rằng, “thách thức về sự thiếu thống nhất trong lập trường về vấn đề Biển Đông của các quốc gia thành viên ASEAN đã trở thành vấn đề dai dẳng, kéo dài hàng thập kỷ trong các cuộc đàm phán của ASEAN với Trung Quốc về COC”. Còn Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim thì gần đây đã tuyên bố: “Chúng tôi không có vấn đề gì với Trung Quốc”. Thực chất là Malaysia đang muốn “kết thân” với Trung Quốc để đổi lấy lợi ích kinh tế nên họ luôn giữ chính sách “ngoại giao im lặng” trong vấn đề Biển Đông. Như vậy, chưa kể đến các yếu tố khác, nếu tình trạng này vẫn tồn tại trong nội bộ ASEAN, thì các cuộc đàm phán để hoàn thiện COC theo dự kiến sẽ kết thúc vào năm 2026 xem ra còn rất viển vông, câu chuyện lỡ hẹn về việc ký kết COC sẽ vẫn cứ tiếp diễn.
Thứ hai, Trung Quốc “nói một đàng, làm một nẻo”, khiến cho việc giải quyết vấn đề Biển Đông tiếp tục gặp khó khăn.
Mặc dù tại Hội nghị Cấp cao ASEAN – Trung Quốc lần thứ 27 diễn ra ngày 10/10/2024 tại Viêng Chăn/Lào, Trung Quốc đã thống nhất cùng các nhà lãnh đạo ASEAN kêu gọi đẩy mạnh nỗ lực hơn nữa để sớm đạt được COC, đưa Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác cùng phát triển. Thế nhưng, trong quá trình xây dựng và tạo dựng sự đồng thuận của các bên đối với COC, Trung Quốc lại không thực tâm, không sẵn sàng tham gia cam kết một cách mạnh mẽ, có tính pháp lý cao với các nước nhỏ yếu hơn, bởi Bắc Kinh hiểu rằng nếu một COC thực chất, hiệu quả, có tính pháp lý cao ra đời, thì đó có thể là thứ “trói chân, trói tay” họ ở Biển Đông. Hơn nữa, ở hội nghị trên thì Trung Quốc nói vậy, nhưng trước đó, bên lề Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh lần thứ 11, khi đề cập đến tình hình Biển Đông, Trung tướng Quân đội Trung Quốc Hà Lôi đã tuyên bố rằng, Quân đội Trung Quốc sẵn sàng “đập tan mọi hành động thù nghịch” nhắm vào “lãnh thổ, chủ quyền, lợi ích trên biển” của mình. Tướng Hà Lôi còn cảnh báo, nếu Mỹ sử dụng một số quốc gia làm “quân cờ”, đẩy họ lên tuyến đầu hay tự họ bước lên tuyến đầu thì Quân đội Trung Quốc “sẽ không ngần ngại đáp trả đích đáng” vì đó là “quyết tâm mạnh mẽ, không có gì lay chuyển được của Trung Quốc”, hơn nữa giờ đây Bắc Kinh “đã có những khả năng vững chắc, những phương tiện hiệu quả” để bảo vệ chủ quyền trên bộ và trên biển. Trong khi, cái mà Trung Quốc gọi là “chủ quyền trên biển” của họ, chính là hơn 80% diện tích Biển Đông được thể hiện trên tấm bản đồ “đường chín khúc” phi pháp, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền các nước trong khu vực. Như vậy nên hiểu, đe dọa vũ lực và sẵn sàng sử dụng vũ lực vẫn là biện pháp ưu tiên hàng đầu được Trung Quốc lựa chọn để thực hiện tham vọng của họ ở Biển Đông. Rõ ràng, Trung Quốc không muốn dựa vào căn cứ của luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982 để giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, bởi làm thế thì họ sẽ rất đuối lý và thất thế nếu không nói là thất bại. Xem ra, quan điểm “Chính quyền nằm trên đầu ngọn súng” hay “…súng sinh ra tất cả…thế giới này chỉ có dùng súng thì mới thay đổi được” của Mao Trạch Đông tiên sinh vẫn đang được Trung Quốc coi trọng để đạt được mục tiêu của họ ở Biển Đông.
Còn trên thực tế, tình hình ở Biển Đông thời gian qua được Tổng thống Philippines Marcos Jr khi phát biểu tại Hội nghị Cấp cao ASEAN – Trung Quốc lần thứ 27, cho biết: Tình hình Biển Đông nhìn chung “vẫn căng thẳng và không thay đổi”, nguyên nhân là do Trung Quốc tiếp tục có các hành vi hung hăng và đe dọa nước khác, coi thường luật pháp và các tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982 và Công ước năm 1972 về Quy định quốc tế về phòng ngừa va chạm trên biển (COLREGS). Ông Marcos Jr chỉ rõ, chỉ riêng trong tháng 8/2024, lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc đã ba lần sử dụng vòi rồng và đâm vào các tàu biển của Philippines. Các tàu đánh cá dân sự và máy bay của Philiipines cũng thường xuyên bị Quân đội Trung Quốc đe dọa bằng tia laser và tên lửa.
Xuất hiện yếu tố “phe nhóm” liên minh đối chọi nhau can dự vào khu vực, có thể đẩy Biển Đông vào tình thế bất trắc thêm.
Đây là một điểm rất mới, rất đáng chú ý, đó là, dường như Nga và Trung Quốc có cùng quan điểm trên các vấn đề của khu vực, kể cả Biển Đông. Ngày 25/7/2024, tại cuộc gặp song phương Nga – Trung bên lề AMM-57, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị và Ngoại trưởng Nga, ông V.Lavrov đã nhất trí hợp tác để “chống lại mọi nỗ lực can thiệp vào các vấn đề Đông Nam Á của các thế lực ngoài khu vực (hàm ý chỉ Mỹ và các đồng minh của Mỹ)”.
Sau cuộc gặp, ông V.Lavrov còn cho biết đã thảo luận với ông Vương về việc triển khai “một kiến trúc an ninh mới” ở Âu – Á, nhưng không nêu rõ chi tiết. Trong khi đó, ông Vương nói với Tân Hoa Xã rằng, “Bắc Kinh sẵn sàng hợp tác với Moscow để… hỗ trợ lẫn nhau một cách vững chắc, bảo vệ lợi ích cốt lõi của nhau”. Theo các nhà phân tích, Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” của họ. Do vậy, trong trường hợp Moscow hợp tác với Bắc Kinh bảo vệ cái gọi là “lợi ích cốt lõi” của nhau như ông Vương Nghị nói, thì đây sẽ là một thách thức to lớn với các nước ven Biển Đông đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc.
Trong khi giữa Trung Quốc và Nga có những dấu hiệu về sự hợp tác, phối hợp quan điểm về vấn đề Biển Đông, thì các nước lớn khác ngoài khu vực như Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản… tiếp tục thể hiện lập trường thượng tôn pháp luật về vấn đề này. Theo đó: Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Đông Á (EAS) lần thứ 14, được tổ chức vào ngày 27/7/2024 tại Lào, Ngoại trưởng Ấn Độ Jaishankar nhấn mạnh tầm quan trọng của COC thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế; khẳng định tầm quan trọng của an toàn và an ninh hàng hải, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, giải quyết hòa bình các tranh chấp theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982; trong tham dự hội nghị AMM-57 tại Lào, sau khi lên án các hành động ‘‘leo thang và bất hợp pháp’’ của Trung Quốc ở Biển Đông, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đã nhấn mạnh mục tiêu ưu tiên của Washington là cổ vũ ‘‘một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do, rộng mở và thịnh vượng’’, đồng thời kêu gọi các nước Đông Nam Á đoàn kết để cùng hóa giải ‘‘các thách thức’’, đặc biệt là các hành động ‘‘leo thang và bất hợp pháp của Trung Quốc chống lại Philippines trong những tháng gần đây’’. Đáng chú ý, Ngoại trưởng Mỹ đã thẳng thừng nêu đích danh Trung Quốc là “thủ phạm” chủ yếu của những căng thẳng ở Biển Đông thời gian qua. Liên quan tới “thoả thuận tạm thời” giữa Philippines và Trung Quốc về giảm căng thẳng ở khu vực bãi Cỏ Mây mới đây, Ngoại trưởng Blinken cho biết, ông rất vui khi Philippines đã hoàn thành nhiệm vụ tiếp tế cho các binh sĩ trên bãi Cỏ Mây trong ngày 27/7/2024 mà không bị cản trở, hoan nghênh giải pháp ngoại giao mà Philippines đã đạt được với Trung Quốc về vấn đề này. Ông bày tỏ: “Chúng tôi hài lòng ghi nhận việc tiếp tế thành công ngày hôm nay cho bãi Cỏ Mây… hy vọng và mong đợi thấy nó sẽ tiếp tục tiến về phía trước”.
Sau khi dự Hội nghị AMM-57 ở Lào, Ngoại trưởng Mỹ đã tới Việt Nam, Nhật Bản và Philippines. Điều đó cho thấy sự coi trọng của Washington đối với khu vực, trong đó có vấn đề Biển Đông. Đáng chú ý, ngày 29/7/2024, tại Tokyo/Nhật Bản, Ngoại trưởng Blinken đã có cuộc họp với Ngoại trưởng các nước Nhật Bản, Australia, Ấn Độ trong Nhóm “Bộ tứ”. Dù cuộc họp này nằm ngoài khuôn khổ các cuộc họp của ASEAN, nhưng ông Blinken vừa từ AMM-57 trở về, nên Biển Đông vẫn là một “điểm nhấn” của cuộc họp này. Theo đó, cả bốn vị Bộ trưởng Ngoại giao đều đồng thuận nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ luật pháp quốc tế đối với việc duy trì trật tự hàng hải, trong đó có khu vực biển Hoa Đông và Biển Đông; đồng thời, tái khẳng định sự phản đối mạnh mẽ đối với bất kỳ nỗ lực đơn phương nào nhằm tìm cách thay đổi hiện trạng tại hai khu vực biển đó bằng vũ lực hoặc gây sức ép. Bốn vị Ngoại trưởng tiếp tục bày tỏ “mối quan ngại nghiêm trọng về hoạt động quân sự hóa các thực thể tranh chấp và động thái cưỡng ép, đe dọa tại Biển Đông”.
Chưa dừng lại ở đó, tại Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) lần thứ 19 diễn ra ngày 11/10/2024, nơi có sự hiện diện của Ngoại trưởng các cường quốc, bao gồm Nga, Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc, Australia, Nhật Bản và EU, Ngoại trưởng Blinken tiếp tục nêu đích danh Trung Quốc là nước đã có các hành động hung hăng ở Biển Đông nhằm vào Philippines, một đồng minh hiệp ước phòng thủ của Mỹ, đồng thời khẳng định cam kết của Mỹ đối với vai trò trung tâm của ASEAN và ủng hộ Tầm nhìn ASEAN về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương
Những diễn biến xung quanh Hội nghị AMM-57, Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) lần thứ 19, cũng như cuộc họp của Ngoại trưởng Nhóm “Bộ tứ” tại Tokyo/Nhật Bản cho thấy, cuộc cạnh tranh địa – chiến lược ở Biển Đông và khu vực không chỉ còn nằm trong khuôn khổ Mỹ – Trung nữa, mà đã được mở rộng ra giữa một bên là Mỹ và các đồng minh, đối tác, với bên kia là Trung Quốc và Nga. Người ta lo ngại rằng, việc Bắc Kinh và Moscow cam kết cùng nhau “ngăn chặn ảnh hưởng của các thế lực bên ngoài” đối với khu vực Đông Nam Á sẽ chỉ khiến tình hình Biển Đông bất trắc thêm, khó lường thêm, đây là điều mà các nước trong khu vực không mong muốn.
Như vậy có thể thấy, mặc dù các hội nghị do ASEAN tổ chức trong năm 2024 đã thành công. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông chưa có gì sáng sủa, vẫn diễn ra tình trạng mâu thuẫn, bất đồng. Các bên có tranh chấp và cạnh tranh nhau tiếp tục đưa ra những cách diễn giải trái ngược nhau về hầu hết các sự việc và diễn biến ở vùng biển này.
Chính sự “lệch pha” đó đã và sẽ làm gia tăng cạnh tranh và các mối đe dọa, gây nguy cơ rất lớn tới sự ổn định vốn đã rất mong manh ở Biển Đông, thậm chí có thể bùng nổ xung đột. Vì vậy, hơn lúc nào hết, lãnh đạo các nước cả trong và ngoài khu vực cần có “cái đầu lạnh” và tầm nhìn tỉnh táo, không để nơi đây biến thành một “Trung Đông mới” của khu vực và thế giới. Chỉ có tuân thủ nghiêm túc những luật lệ và chuẩn mực đã được quốc tế công nhận rộng rãi, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc và UNCLOS 1982 mới giúp tạo ra khuôn khổ chung để các nước giải quyết bất đồng trên tinh thần hòa bình và hợp tác, mới đưa Biển Đông trở thành vùng biển phát triển có lợi cho cả thế giới chứ không chỉ có lợi cho bất kỳ quốc gia nào