Friday, November 22, 2024
Trang chủBiển nóngSự kiệnTÍNH KHÔNG CÓ CƠ SỞ CỦA “ĐƯỜNG LƯỠI BÒ” CỦA TRUNG QUỐC...

TÍNH KHÔNG CÓ CƠ SỞ CỦA “ĐƯỜNG LƯỠI BÒ” CỦA TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG

Năm 1947 nhà đương
cục Trung Hoa Dân quốc cho in một bản đồ có "đường lưỡi bò", được tạo
bởi một đường đứt khúc gồm 11 đoạn bao trùm xung quanh các quần đảo, bãi ngầm
trên biển Đông. Sau khi được thành lập (năm 1949), Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng
nối tiếp chính quyền trước đó trong việc xuất bản bản đồ có "đường lưỡi
bò".

Tới năm 1953, bản đồ có "đường lưỡi bò" do Trung Quốc xuất
bản chỉ còn 9 đoạn, bỏ đi 2 đoạn trong Vịnh Bắc Bộ. Theo bản đồ này, đường yêu
sách hình chữ U chiếm tới 80% diện tích Biển Đông. Từ đó đến nay, một số học giả
Trung Quốc coi đó là đường biên giới biển của Trung Quốc trong Biển Đông. Mặc
dù xuất bản bản đồ có "đường lưỡi bò", nhưng cả chính quyền Trung Hoa
Dân quốc trước đó lẫn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau này đều chưa bao giờ
chính thức tuyên bố yêu sách hay giải thích gì. Nhưng cho tới ngày 7/5/2009,
Trung Quốc đã gửi công hàm tới Liên hợp quốc, đi kèm một bản đồ thể hiện đường
yêu sách 9 đoạn trên Biển Đông.

Theo các tài liệu của Trung Quốc[1], việc
xuất bản các bản đồ thể hiện đường "đường lưỡi bò" nói trên thể hiện 3
quan điểm:

1. Khu vực nằm
trong "đường lưỡi bò" này là các đảo, đá và các vùng nước kế cận của
chúng đã thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc trong lịch sử.

2. Phù hợp với các
công ước quốc tế, vị trí và hướng đi của con đường đứt khúc 11 đoạn này (sau
thay bằng chín đoạn) đã được vạch theo cách gần như là đường cách đều giữa rìa
ngoài của bốn quần đảo trong biển Nam Trung Hoa với đường bờ biển của các quốc
gia kế cận. Điều này đã và đang là hợp pháp vào thời gian Trung Quốc đã chiếm
cứ, chiếm hữu và quản lý.

3. Việc sử dụng
các đường đứt khúc (thay cho một đường liên tục) là nhằm để xác định các khu
vực còn chưa được giải quyết dứt điểm, để lại khả năng đưa ra những điều chỉnh
cần thiết trong tương lai.

Sự không có cơ sở của các quan điểm này

Về điều kiện thứ nhất: Vùng nước lịch sử

Căn cứ vào tập
quán và các phán quyết của toà án và trọng tài quốc tế, một vịnh hay một vùng nước
được coi là lịch sử phải thoả mãn ít nhất hai điều kiện:

+ Tại đó, quốc gia
ven biển thực hiện một cách thực sự chủ quyền của mình một cách liên tục, hoà
bình và lâu dài;

+ Có sự chấp nhận
công khai hoặc sự im lặng không phản đối của các quốc gia khác, nhất là các
quốc gia láng giềng, có quyền lợi tại vùng biển này.

Nếu chứng minh
được điều kiện nói trên, Trung Quốc phải cho thấy rằng họ đã thực thi chủ quyền
trên toàn bộ Biển Đông này một cách thực sự, liên tục và hoà bình trong thời
gian dài.

Điều này không có cơ sở:

– Các văn kiện
chính thức của Nhà nước phong kiến Trung Quốc, như Đại Nguyên nhất thống chí (1294), Đại Minh nhất thống chí (1461), Đại
Thanh nhất thống chí (1842)
, trước năm 1909 đều khẳng định "cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc là
Nhai Huyện đảo Hải Nam"
. Trung Quốc chỉ thực sự bước chân lên quần đảo
Hoàng Sa năm 1909 khi quần đảo này đã thuộc Việt Nam, không còn là đất vô chủ. Các bản đồ lãnh thổ Trung Quốc của người nước
ngoài cùng thời cũng vẽ và giải thích phù hợp với cách hiểu này của người Trung
Quốc. Bản đồ Trung Quốc thế kỷ XVII của Peter de Goyer và Jacob de Keyzer thuộc
Công ty Đông ấn – Hà Lan cũng có lời giải thích rất rõ: "Nơi xa nhất của Trung Quốc bắt đầu từ phía
nam đảo Hải Nam
ở 18 độ vĩ Bắc, rồi từ đó ngược lên phía bắc đến vĩ độ 42o
[2].
Về Trường Sa, cho tới tận năm 1932, công hàm ngày 29/9/1932 của Phái đoàn ngoại
giao Trung Hoa dân quốc tại Paris vẫn còn khẳng định các nhóm đảo
"Amphitrite" (Lưỡi Liềm) và "Croissant " (An Vĩnh) của quần
đảo Tây Sa (Hoàng Sa) "tạo thành phần
lãnh thổ Trung Quốc nằm tận cùng ở phía Nam
".

– Trung Quốc không
đưa ra được các bằng chứng nào có sức thuyết phục về việc họ đã thực thi chủ
quyền trên toàn bộ vùng biển rộng lớn này một cách liên tục, hoà bình từ thời
xa xưa. Mặc dù người ta có thể chấp nhận ưu thế của người Trung Quốc trong việc
phát triển các đường biển thương mại và khai thác tài nguyên biển, cũng không
có một bằng chứng nào cho thấy Biển Đông hoàn toàn là "ao hồ Trung
Quốc". Các sách Hán văn cổ đều ghi nhận các hoạt động của dân đánh cá và
dân buôn Ả-rập, Ấn Độ, Malay và vùng Vịnh trong vùng biển này[3].
Trung Quốc cũng không thiết lập hoặc duy trì có lợi cho họ một sự độc tôn nào
trong vùng biển này, khả dĩ có thể loại bỏ hoạt động khai thác của các đội
Hoàng Sa và Bắc Hải của triều Nguyễn. Ngược lại, họ còn có những hành động thừa
nhận tính hợp pháp của các hoạt động đó như trường hợp năm 1774: quan huyện Văn
Xương giúp đội viên đội Hoàng Sa khi đi làm nhiệm vụ bị bão dạt vào đất Trung
Quốc.

– "Đường lưỡi
bò" của Trung Quốc không phải là một con đường có tính ổn định và xác định. Từ 11 đoạn họ đã
phải bỏ đi hai đoạn trong Vịnh Bắc Bộ vì quá vô lý. Tính chất không liên tục
của đường này được các tác giả Trung Quốc giải thích để cho "những điều chỉnh cần thiết trong tương
lai"
. Một con đường như vậy rõ ràng không thể nào lại được coi là "biên giới quốc gia" theo luật
pháp quốc tế. Đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế là tính ổn định và dứt khoát[4].
Trong một xã hội có trật tự pháp lý, các đường biên giới phải là một trong số
các các thể chế ổn định nhất từ tất cả các thể chế[5].
Vậy mà ở đây, đến cả người Trung Quốc, tác giả của đường này còn chưa biết nó đi
thế nào, cơ sở lập luận là không có căn cứ, không thể coi đây là biên giới quốc
gia.

Về điều kiện thứ hai: Công nhận hay mặc nhiên thừa
nhận

Trung Quốc chưa
bao giờ công bố chính thức yêu sách Biển Đông theo đường ranh giới gồm chín đoạn
đứt khúc nhau này.

Theo luật pháp
quốc tế, các hành vi mà quốc gia thể hiện phải mang tính công khai ý chí thực
thi chủ quyền trên lãnh thổ đó. Các hành vi này phải thể hiện như những hành vi
bình thường của một quốc gia. Những hành
vi bí mật không thể tạo nên cơ sở cho quyền lịch sử;
ít nhất các quốc gia
khác phải có cơ hội để biết được cái gì đang diễn ra[6]. Lập
luận của Trung Quốc là một sự mặc nhận, nhưng bất kỳ sự mặc nhận nào cũng chỉ
có thể vận dụng có kết quả một khi yêu
sách đó đã được tuyên bố rõ ràng, không mập mờ, chính thức và được duy trì
trong một thời gian dài
đủ để quốc gia có ý kiến bất đồng đưa ra ý kiến
chính thức của họ. Con đường đứt khúc chín đoạn này mâu thuẫn ngay với quan điểm
chính thức của Trung Quốc đã nêu trong tuyên bố ngày 4/9/1958 về các vùng biển Trung Quốc[7].

Theo
tuyên bố đó, Trung Quốc công nhận rằng các đảo bị tách biệt với lục địa bởi
biển cả, chứ không phải các vùng nước lịch sử. Như vậy, không thể tồn tại vùng
biển cả nằm trong nội thuỷ của Trung Quốc. Trong Pháp lệnh về Lãnh hải và Vùng
tiếp giáp của CHND Trung Hoa năm 1992, Trung Quốc cũng chỉ nêu đòi hỏi lãnh hải
12 hải lý xung quanh những vùng đất yêu sách chủ quyền và vùng tiếp giáp 12 hải
lý dành cho thuế quan và các mục đích tương tự chứ không xác định "vùng nước lịch sử". Tuyên bố
về đường cơ sở ngày 15/5/1996 của Trung Quốc, áp dụng đối với cả quần đảo Hoàng
Sa của Việt Nam cho thấy việc Trung Quốc yêu sách một vùng nội thuỷ nằm trong
một vùng nước lịch sử có cùng chế độ nội thuỷ là một mâu thuẫn lớn trong lập
trường. Không một quốc gia (văn minh và tiến bộ) nào lại công nhận đường ranh
giới chín đoạn đứt khúc này, con đường không được xác định rõ cả về cơ sở pháp
lý lẫn toạ độ địa lý, vì đây là sự vi phạm thô bạo chủ quyền lãnh thổ không chỉ
của các nước liên quan mà còn là sự thách thức đối với quyền lợi hàng hải, hàng
không… của cộng đồng quốc tế. Từ bao đời nay, các quốc gia trong khu vực vẫn
tiến hành các hoạt động sử dụng biển một cách bình thường trong Biển Đông không
có sự ngăn cản nào của Trung Quốc.

Thêm
vào đó, việc các nước tham gia hội nghị San Francisco tháng 9/1951 đã bác bỏ đề
nghị trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và thực tế
tranh chấp Việt Nam – Trung Quốc về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa cũng như đòi hỏi của Philippin, Malaixia đối với hầu như toàn bộ hoặc
một bộ phận của quần đảo Trường Sa cho thấy không thể nói "đường lưỡi
bò" trên Biển Đông mà Trung Quốc vạch ra đã được các nước khác công nhận.
Trong các hội nghị quốc tế như Hội nghị
kiềm chế các xung đột tiềm tàng trong biển Nam Trung Hoa
tổ chức hàng năm
theo sáng kiến của Indonexia, các đại biểu Trung Quốc luôn lảng tránh khi bị
chất vấn về cơ sở pháp lý và lịch sử của con đường này, con đường yêu sách tới
80% vùng Biển Đông làm ao hồ của Trung Quốc, một yêu sách coi thường lịch sử và
pháp luật, chà đạp lên truyền thống sử dụng biển của các dân tộc bên bờ Biển Đông[8].

Về điều kiện khu vực và hoàn cảnh thực tế:

 Trung Quốc cũng đã viện dẫn một số trường hợp
yêu sách vùng nước lịch sử trong thực tiễn quốc tế như yêu sách của Liên Xô cũ
ngày 20/7/1957
tại vịnh Pierre
Đại đế[9],
yêu sách của Libi ngày 11/10/1973
tại vịnh Sidra…[10]. Theo họ,
các ví dụ này chứng tỏ rằng trong thực tiễn quốc tế, luật về các vịnh lịch sử đã
có được một quy chế pháp lý riêng biệt và như vậy yêu sách đường chín đoạn của
Trung Quốc là hợp pháp. Lập luận dựa trên cơ sở các trường hợp yêu sách quá đáng
vùng nước lịch sử mà họ viện dẫn bị luật pháp quốc tế luôn phê phán. Các trường
hợp ít ỏi này không tạo ra được một opinio
juris
(ý kiến pháp lý) và một thực tiễn pháp lý nên không bao giờ được luật
quốc tế chấp nhận như một quy tắc tập quán. Vùng nước nằm trong "đường
lưỡi bò" chiếm 80% diện tích Biển Đông mà Trung Quốc cho là "vùng nước lịch sử" là không
thể chấp nhận được. Luật quốc tế không công nhận một vùng nước lịch sử lớn đến
như vậy. Yêu sách biển Nam Trung Hoa như một ao hồ của Trung Quốc đi ngược lại
với học thuyết các vùng nước lịch sử. Cộng đồng quốc tế chưa bao giờ ghi nhận
một yêu sách như vậy và sẽ không chấp nhận một khoảng không gian rộng lớn như
biển này, biển lớn nhất nhì thế giới, nằm dưới quyền tài phán của duy nhất một
nước. Một yêu sách như vậy không có một danh nghĩa gì, do đó, sự không có danh nghĩa sẽ kéo theo sự không có
quyền tài phán
[11].

"Đường lưỡi
bò" mà Trung Quốc yêu sách này chạy sát bờ biển của các nước, có đoạn chỉ
cách bờ biển Việt Nam khoảng 50 – 100 km, trong khi Trường Sa cách bờ Việt Nam
khoảng trên 200 hải lý. Đường này còn chạy sát bãi Shoal James (Tăng Mẫu) của
Malaixia và đảo Natura của Indonexia, quần đảo Philippin, gây lo ngại sâu sắc
cho các nước trong khu vực. Vì vậy, không thể coi đường này được vẽ "theo cách gần như là đường cách đều giữa rìa
ngoài của bốn quần đảo trong biển Nam Trung Hoa với đường bờ biển của
các quốc gia kế cận, phù hợp với các công ước quốc tế"
mà một số luật
gia Trung Quốc lập luận.

Trước hết, các
Công ước quốc tế cũng như thực tế xét xử của các cơ quan tài phán quốc tế không
trù định quyền ưu tiên của phương pháp đường
cách đều
trong phân định, nhất là trong trường hợp có các danh nghĩa lịch
sử.

Trung Quốc khẳng định
xây dựng yêu sách của mình trên cơ sở "danh
nghĩa lịch sử
", đồng thời lại áp dụng phương pháp đường cách đều để
phân định, phủ nhận danh nghĩa lịch sử đó. Điều này không nhất quán.

Thứ
hai, nếu vẽ đúng kỹ thuật, con đường này hoàn toàn không thể là con đường cách đều giữa các đảo nằm giữa Biển Đông với
bờ biển của các nước xung quanh. Đó là chưa kể đến Điều 121 của Công ước của
Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 quy định rằng những đảo, đá nào không thích
hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì chỉ có lãnh hải
rộng không quá 12 hải lý.

Trên đây là ý kiến phân tích một số luận điểm không
có cơ sở của Trung Quốc về “đường lưỡi bò”, người viết bài này cho rằng, Trung
Quốc với truyền thống Đại Hán luôn có tham vọng bá quyền sẽ không bao giờ từ bỏ
những mưu đồ của
mình đối với vấn đề Biển Đông; gần đây nhất, Trung Quốc đã tuyên bố rằng Biển
Đông thuộc phạm vi “lợi ích cốt lõi” của họ, việc mà trước đây vốn chỉ dùng cho
vấn đề Đài Loan và Tây Tạng. Tuy nhiên, với tinh thần đoàn kết của các nước
ASEAN, thống nhất tuân thủ thực hiện và giải quyết vấn đề Biển Đông trên cơ sở
của luật pháp quốc tế và các nguyên tắc của DOC, cũng như sự
quan tâm của các nước lớn như Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc… chắc chắn rằng Trung
Quốc sẽ không bao giờ thực hiện được tham vọng vô lý của mình. 

 
 

[1]
Các tài liệu của Trung Quốc bao gồm:

–    
Du Khoan Tứ, Đại học Quốc lập Đài Loan, 1994: Tính pháp lý, vị trí ranh giới hình chữ U và
vùng nước trong ranh giới vùng Nam
Hải nước ta.

–    
Văn Huệ Châu – Viện Nghiên cứu Châu Âu và Mỹ, 1994: Vấn đề các vùng nước lịch sử trong tranh
chấp Biển Nam
Trung Hoa.

–    
Tiêu Vĩnh Khoa, Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc, …: Không tồn tại vấn đề phân định lại ranh giới
biển Nam
Hải.

–    
Trần Thiên Điền, Viện Nghiên cứu chính trị, Đại học Văn
hoá Trung Quốc, 1997: Tranh chấp về chủ
quyền trên biến Nam
Trung Hoa.

[2]
Peter de Goyer and Jacob de Keyzer: An
Embassy from the east-India Company United Provinces to the Grand Tartar Cham
Emperor of China..
., Thư
viện Menzies, Australia, v. Ige. rare b DS
708.N64.

[3]
G.M.C. Valero: SpratlyAarchipelago:Is the
question of sovereignty still relevant?
, IILS, University of the Philippines Law
Center, Diliman, Quezon City, 1993.

[4] Tuyển tập các phán quyết, sắc lệnh của Toà
án pháp lý quốc tế ICJ
, 1962, Vụ đền Préah Vihéar, tr. 34.

[5]
R.Y. Jennings, The Acquisition of Territory
in International law
, Manchester,
1963, p. 70.

[6] Tuyển tập các phán quyết, lệnh của Toà án
pháp lý quốc tế ICJ
, 1951, Vụ Ngư trường Anh – Nauy, tr. 116, 139; G.
Fitzmaurice: "Luật pháp và điều lệ
của toà án pháp lý quốc tế, 1951-1954",
BYIL 1954, quyển 30, tr. 1-30.

[7]
"Chính phủ Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tuyên bố:

“ Bề rộng lãnh
hải của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho tất
cả lãnh thổ của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, bao gồm lục địa và các đảo ven bờ,
cũng như Đài Loan và các đảo phụ cận, Bành Hồ, Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam
Sa quần đảo và tất cả các đảo thuộc Trung Quốc được tách rời khỏi lục địa và
các đảo ven bờ bởi biển cả".

[8]
B.A. Hamzah, "Jurisdiction Issues and Conflicting Claims in the
Spratlys", The Indonesian Quarterly,vol. XVIII, N 2, p. 133-153.

[9]
Roach and Smith: Excessives Maritime
Claims
(Các yêu sách biển quá đáng), International Law Studies, Vol. 66,
1994.

[10]
Libi đã khép vịnh này với diện tích 22.000 hải lý vuông bằng một đường thẳng
dài 300 hải lý. Quyết định này đã bị các nước phản đối mạnh, nhất là Hoa Kỳ và
các cường quốc hàng hải.

[11]
B.A. Hamzah: "Các vấn đề tài phán tranh chấp trong khuôn khổ Spratly đối
với việc giải quyết tranh chấp", Hội
nghị kiềm chế xung đột tiềm tàng trong biển Nam
Trung Hoa
, Bandung,
Indonexia, 15-18/7/1991, tr. 199-200.

 

RELATED ARTICLES

Tin mới