Thursday, November 28, 2024
Trang chủKinh tế - Văn hóa - Xã hộiDoanh nghiệp Việt xuất khẩu gạo vẫn thua Campuchia

Doanh nghiệp Việt xuất khẩu gạo vẫn thua Campuchia

Chỉ nên bỏ các điều kiện không cần thiết, còn bổ sung thêm một số điều kiện cần, chứ không nên buông lỏng toàn bộ.

Xuất khẩu lúa gạo vẫn cần có các điều kiện cần thiết

Xóa bỏ ngay việc mạnh ai nấy làm

PV:– Mới đây, VCCI đề nghị bỏ “kinh doanh xuất khẩu gạo” ra khỏi Danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Lý do, gạo được xem là loại hàng hóa liên quan đến an ninh lương thực quốc gia, vì vậy các chính sách quản lý đặc thù liên quan gạo có thể là cần thiết. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành đã có nhiều quy định để đảm bảo an ninh quốc gia, quốc phòng và các lợi ích công cộng liên quan đến sản phẩm gạo.

Do đó, yêu cầu về điều kiện đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo để đảm bảo cho lợi ích công cộng là chưa phù hợp. Là một chuyên gia lâu năm trong ngành lúa gạo, ông có đồng tình với đề xuất của VCCI? Quan điểm của ông ra sao về vấn đề này?

GS.TS Võ Tòng Xuân:– Tôi hiểu vì sao VCCI đưa ra kiến nghị trên, thế nhưng, theo tôi, không nên xóa hết các điều kiện, chỉ xóa đi các điều kiện không cần thiết và gây khó khăn cho DN như kho chứa 5000 tấn, năng suất xay xát 10 tấn/giờ. Còn các điều kiện về mặt chất lượng như không được dư thừa thuốc bảo vệ thực vật, có vùng nguyên liệu vẫn nên giữ lại.

Bởi vì, nếu để các công ty mạnh ai nấy xuất thì sẽ làm cho gạo VN không có uy tín. Phần lớn các công ty xuất khẩu gạo, kể cả Vinafood hiện nay đều không có vùng nguyên liệu, mua tạp của các thương lái, mà thương lái mua không biết nông dân nào phun thuốc gì. Gạo chúng ta hay bị trả lại vì dư thừa chất BVTV là do vậy.

Điều kiện cần cho các DN xuất khẩu gạo đó là phải có vùng nguyên liệu, biết quy trình sản xuất ra hạt gạo, chứng minh được nguồn gốc hạt gạo.

Sắp tới, phải gắn “4 nhà” với nhau. Nhưng chính nhà nông cũng phải biết gắn với nhau trong một vài xã để có chung vùng nguyên liệu. 1.000 nông dân phải làm chung một quy trình Viet GAP trong sản xuất lúa để cho ra chung một giống lúa cung cấp cho nhà doanh nghiệp.

Doanh nghiệp phải có nhà máy xay xát, nhà máy sấy, nhà máy đóng gói bao bì, có đăng ký thương hiệu… Có vậy mới lấy lại uy tín cho hạt gạo Việt Nam. Nếu không như vậy, các doanh nghiệp cứ tiếp tục làm ăn nhỏ lẻ, mạnh ai nấy tranh mua tranh bán lấy lời, chỉ có nông dân là mất đi quyền lợi của mình.

Nếu làm được, chúng ta cũng sẽ giống Thái Lan giờ chỉ có 3 loại gạo, hoặc Campuchia có 2 loại gạo, nhưng đảm bảo về mặt chất lượng, quản lý tốt. Như Campuchia, họ có liên đoàn nhà máy gạo và liên đoàn phân phối, nhà máy được kiểm tra đàng hoàng, không đạt yêu cầu thì đề nghị nhà nước cho được vay vốn ưu đãi để nâng cấp nhà máy lên, đảm bảo gạo ở mức ngon nhất. Vì thế, hiện nay, Campuchia còn thắng cả Thái Lan trong việc sản xuất gạo ngon có thương hiệu đến các thị trường.

Từ trước đến nay, chúng ta không có nhà máy, cũng không có cam kết sản xuất, chỉ để Vinafood độc quyền, một mình một sân xuất khẩu, nhưng thường xuyên bị trả về hoặc bị ép bán giá rẻ, cuối cùng người chịu thiệt thòi là người dân.

Chính vì thế, với đề xuất của VCCI, theo tôi, chỉ nên bỏ các điều kiện không cần thiết, còn bổ sung thêm một số điều kiện cần, chứ không nên buông lỏng toàn bộ, để tự do là không quản lý được đặc biệt về chất lượng. Có thể vì lợi ích riêng các công ty xuất khẩu sẽ làm mất hình ảnh, uy tín hạt gạo VN.

PV:– Trước đây, đã rất nhiều chuyên gia chỉ ra thực trạng các DN xuất khẩu nhỏ và vừa không thể đáp ứng điều kiện như kho chuyên dùng với sức chứa tối thiểu 5.000 tấn, cơ sở xay xát đạt công suất tối thiểu 10 tấn thóc/giờ, nên kết quả là phải đóng cửa.

Đã có trường hợp Công ty Cỏ May, Đồng Tháp phải lập một công ty nhập khẩu Cỏ May ở Singapore để nhập chính gạo của Cỏ May qua đơn vị được ủy thác. Rồi từ công ty “con” tại Singapore, các sản phẩm gạo của Cỏ May được chuyển vào các kênh bán lẻ tại nước này. Họ phải trả chi phí ủy thác 40 đồng/kg gạo cho đơn vị được ủy thác.

Việc đưa gạo ra khỏi ngành kinh doanh có điều kiện, theo ông, nó có tạo cơ hội cho các DN vừa và nhỏ hiện nay rộng đường tham gia vào việc xuất khẩu. Đồng thời, xóa bỏ thế độc quyền của các ông chủ lớn trong ngành xuất khẩu gạo, tạo nên một thị trường kinh doanh cạnh tranh hay không? Vì sao ạ?

GS.TS Võ Tòng Xuân:– Thực tế, các DN vừa và nhỏ chủ yếu vẫn là sản xuất gạo hữu cơ và gạo sản lượng thấp, nhưng chất lượng cao, để cạnh tranh được với các DN bán sản lượng cao, nhưng chất lượng gạo không bằng.

Thế nhưng, đã là gạo chất lượng cao, việc xuất khẩu đi cũng chỉ vài trăm tấn, nên chắc chắn họ sẽ không thể đáp ứng được các yêu cầu như kho chứa 5000 tấn, công suất xay sát 10 tấn/giờ.

Vì thế, chúng ta phải chia ra các trường hợp, nếu sản xuất gạo đặc sản, giá trị cao thì phải hỗ trợ, chứ không áp dụng các điều kiện trên. Ví dụ, tại Campuchia, họ xuất khẩu gạo thơm, gạo đặc sản mỗi năm cũng chỉ khoảng 800-900 tấn. Số lượng không nhiều nhưng nước này có nhiều chính sách ưu đãi hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu.

Còn các DN hiện nay vẫn đang đạt yêu cầu để xuất khẩu, nhưng chất lượng không đảm bảo, làm mất uy tín thì yêu cầu thêm các điều kiện về vùng nguyên liệu…

Khi làm được như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, tôi tin chắc các công ty Tổng công ty lương thực 1, 2 sẽ thua trên thị trường, chỉ xuất khẩu được trong điều kiện TPP, hoặc dựa vào hợp đồng Chính phủ với Chính phủ, DN với DN.

Còn thị trường phục vụ cho các khách hàng khó tính chỉ có thể là các công ty xuất khẩu đi theo hướng chất lượng cao mới làm được.

Cái khó của gạo VN

PV:– Thực tế, từ trước đến nay, nông dân tại ĐBSCL vẫn luôn khóc ròng vì chịu cảnh giá cả lúa gạo lên xuống thất thường. Đơn giản là vì các doanh nghiệp xuất khẩu gạo không thu mua trực tiếp mà thông qua các thương lái, vì thế nên người dân luôn phải chấp nhận giá bấp bênh.

Với việc đa dạng hơn về đơn vị mua gạo, cái lợi của người dân ĐBSCL có là gì, thưa ông?

GS.TS Võ Tòng Xuân:– Nếu được, chúng ta phải làm công ty cổ phần nông nghiệp. Nông dân là cổ đông của công ty này. Công ty phải có đủ vùng nguyên liệu, nhà máy sấy, nhà máy xay xát chế biến gạo, kho dự trữ, nhà máy bao bì, làm thương hiệu… và sản xuất theo quy trình Viet GAP. Tiền lời kinh doanh hằng năm chia cho nông dân.

Trong chuỗi giá trị có nhiều công ty cung ứng, công ty cung ứng về vật tư, công ty cung ứng về nguyên liệu, thương lái sẽ không làm như xưa, mà tập hợp lại thành lập công ty, đề xuất khẩu lúa, nguyên liệu.

Chúng ta không thể bỏ thương lái đi được, chỉ có thể bắt họ làm ăn đàng hoàng, không thể chộp giật như trước. Họ chính là người tổ chức sản xuất, cộng tác nhà với các khoa học, đi tới quy trình hợp nhất để nông dân sản xuất được lúa theo đúng yêu cầu của DN.

Chính phủ Thái hiện nay trợ giá bằng cách mua lại lượng lúa của nông dân vừa đủ kiểm soát thị trường. Số còn dư thừa, các công ty được quyền mua bán, nhưng mức giá không thấp hơn giá chính phủ. Số gạo dự trữ, tuỳ vào tình hình thị trường, nếu thấy có lợi, Chính phủ sẽ mở thầu bán lại cho các công ty trong nước (không phân biệt đối xử) để họ xuất khẩu.

Như vậy, chính sách hỗ trợ đến trực tiếp nông dân chứ không phải doanh nghiệp và cơ chế này cũng không mang lại đặc quyền cho doanh nghiệp nào. Việt Nam cũng có thể làm theo cách này, nhưng số tiền bỏ ra thu mua lúa dự trữ hàng năm phải rất lớn.

PV:– Nếu chúng ta mở rộng được thị trường cho các DN cạnh tranh một cách công bằng, thì việc xuất khẩu gạo của VN, chúng ta có thể hy vọng vào các thành tựu đáng mừng hơn hay không? Tương lai có được thương hiệu gạo nổi tiếng để cạnh tranh với các nước Thái Lan, Campuchia, trên các thị trường tiêu thụ tiêu chuẩn cao hay không?

GS.TS Võ Tòng Xuân:– Vấn đề bây giờ mình phải làm thương hiệu gạo Việt Nam thì mới có thể cạnh tranh không chỉ trên thế giới mà phải cạnh tranh ngay tại sân nhà.

Mình phải phổ biến giống của Việt Nam mình. Phải làm theo chuỗi giá trị, liên kết 4 nhà (nhà nước-nhà khoa học-nhà doanh nghiệp-nhà nông) để cùng sản xuất. Nông dân hợp tác với nông dân, theo mô hình hợp tác xã kiểu mới.

Bây giờ có hợp tác xã kiểu mới rồi thì mình phải có doanh nghiệp đầu ra để gắn kết với hợp tác xã kiểu mới này. Theo đó, cán bộ đồng ruộng của doanh nghiệp cùng với cán bộ khuyến nông của ngành nông nghiệp sẽ tập huấn cho nông dân về sản xuất theo tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP).

Có hợp tác xã kiểu mới thì chúng ta phải có những nông dân đổi mới, có tư duy mới trong sản xuất lúa gạo. Xóa bỏ tình trạng nông dân tự làm theo tự ý mình theo kiểu “lão nông tri điền” mỗi người làm một kiểu không đồng nhất, gây khó quản lý và hiệu quả thấp hơn. Từ đó hướng người nông dân theo quy trình VietGAP vừa ít tốn kém, vừa ít sâu bệnh, chất lượng cao, vệ sinh an toàn thực phẩm.

Khi mà nguyên liệu lúa được doanh nghiệp tiêu thụ với giá phải chăng, doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu chất lượng, giá tốt, bảo đảm chất lượng, có nhà máy cơ sở chế biến, đóng gói bao bì hiện đại thì ngành lúa gạo Việt Nam hoàn toàn có khả năng cạnh tranh tốt hơn.

Thế nhưng, chúng ta khó có thể cạnh tranh với Campuchia, vì chúng ta không có gạo mùa, nông dân Việt lại thích năng suất cao. Không có ai trồng lúa một năm một vụ và cũng không có ai trồng lúa chỉ đạt năng suất 3 tấn/ha. VN mình vẫn sản xuất chạy theo sản lượng, một năm 3 vụ, mỗi vụ năng suất khoảng 4-6 tấn/ha. Như vậy không thể nào có giống ngon được, nếu có ngon thì cũng dẻo dẻo chút thôi chứ không thể nào bằng gạo Campuchia.

Nếu tính ra, giống Campuchia xuất khẩu được 800 USD/tấn gạo, mỗi ha họ sản xuất chỉ được khoảng 3 tấn/năm, xay ra gạo chỉ còn được 1,5 -1,8 tấn gạo thì mỗi năm được gần 1.600 USD/tấn gạo.

Trong khi gạo Việt Nam mình mỗi ha sản xuất được 4-6 tấn, một năm ba vụ như vậy sẽ đạt khoảng 12-18 tấn/ha, mỗi tấn gạo Việt Nam mình có giá khoảng 450 USD. Tính ra thu nhập mình cũng cao gấp mấy lần của Campuchia.

Mặt khác, gạo Campuchia đã trở nên nổi tiếng trên thế giới bởi 3 năm liên tiếp đạt danh hiệu gạo ngon nhất thế giới và có tới 8 thương hiệu để trưng bày tại Hội chợ thương mại lương thực được tổ chức ở Bangkok (Thái Lan).

Còn các thị trường tiêu thụ gạo chính của Việt Nam là Trung Quốc, Philipines, Malaysia, Indonesia, Ghana, Bờ biển Ngà… Những thị trường này cũng không có nhiều nhu cầu mua gạo giá cao, nên họ chuộng mua gạo giá rẻ hơn. Vậy nên, mình vẫn sản xuất cung cấp chủ yếu cho các thị trường từ trung bình cho tới thị trường thấp, với số lượng lớn.

Chính vì thế, tôi tin chúng ta sẽ làm được gạo đúng thương hiệu VN, nhưng chất lượng không cao được như Thái Lan, Campuchia, cho đến giờ phút này. Chúng ta sẽ mãi phải thua 2 nước này, chỉ có thể là hơn họ ở việc làm lúa năng suất cao, giá rẻ hơn rồi bán cho các nước nghèo, chạy theo số lượng

RELATED ARTICLES

Tin mới