Ông Tập Cận Bình nói điều này, có lẽ là do nhu cầu chính trị, và cũng có thể phản ánh một thực tế rằng ông ấy không hiểu về chuyện này.
Giáo sư Trương Bác Thụ,
Ngày 27/12, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đăng bài Học giả gốc Hoa: Tranh chấp Biển Đông khó giải quyết vì “ý thức hệ”, là bài phân tích của Giáo sư Trương Bác Thụ từ Hoa Kỳ. Ông đưa ra một số bình luận rất đáng chú ý với thái độ khách quan, tôn trọng luật pháp quốc tế về Biển Đông.
Hôm nay chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tiếp đến quý bạn đọc bình luận của ông về việc tại sao Trung Quốc chống lại Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) mà chính họ đã rất tích cực tham gia đóng góp, xây dựng nên?
Thực hư cái gọi là “Trung Quốc có chủ quyền với Biển Đông, Trường Sa từ thời cổ đại”, hay “Biển Đông, Trường Sa là của tổ tiên chúng tôi để lại” cũng được Giáo sư Trương Bác Thụ mổ xẻ dưới lăng kính pháp lý, khoa học.
Đây là những phân tích rất có giá trị từ một học giả người Trung Quốc phản bác chính các yêu sách phi lý mà nước này đang theo đuổi ở Biển Đông, tìm cách biến nó thành ao nhà.
Thiết nghĩ trong bối cảnh tranh chấp Biển Đông hết sức phức tạp, Trung Quốc thì ra sức tuyên truyền theo lối “cả vú lấp miệng em”, những tiếng nói từ các học giả Trung Quốc chân chính như Giáo sư Lý Lệnh Hoa, Giáo sư Trương Bác Thụ cần được trân trọng, hoanh nghênh, cổ vũ và nghiên cứu thấu đáo, để đấu tranh bác bỏ những quan điểm sai trái.
Tại sao Trung Quốc phản đối UNCLOS 1982?
“Nói một cách tương đối, Trung Quốc can dự vào Biển Đông tương đối muộn, mãi nửa cuối thập niên 1980 họ mới bắt đầu can dự quy mô lớn.
9 cấu trúc Trung Quốc chiếm đóng ở Trường Sa đại bộ phận đều chiếm từ những năm 1980 (quan điểm phổ biến cho rằng Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép 7 cấu trúc: Gạc Ma, Chữ Thập, Xu Bi, Tư Nghĩa, Châu Viên, Ga Ven chiếm năm 1988 và Vành Khăn chiếm năm 1995).
Những cấu trúc có giá trị, nhô tương đối cao khỏi mặt biển khi thủy triều lên, tương đối nổi bật ở Trường Sa thì các bên đã chiếm trước rồi. Khi Trung Quốc tiến xuống, mấy cấu trúc ban đầu chưa bị bên nào chiếm đóng, ví dụ như đá Chữ Thập.
Những cấu trúc Trung Quốc chiếm đóng đại bộ phận là các bãi lúc chìm lúc nổi theo thủy triều lên xuống. Thủy triều lên thì chúng chìm hoàn toàn dưới mặt nước biển, thủy triều xuống thì chỉ có vài mỏm đá lô nhô, có lẽ vì thế các bên không (chưa kịp) chiếm đóng.
Trong số này có khoảng 2 hoặc 3 cấu trúc là đá, tức khi thủy triều lên vẫn có một số mỏm đá nhô lên mặt nước, có những cấu trúc đã từng xảy ra chiến tranh, ví dụ năm 1988 Trung Quốc tấn công (xâm lược) Gạc Ma, sát hại mấy chục người lính Hải quân Việt Nam.
Các cấu trúc Trung Quốc chiếm đoạt từ tay nước khác còn có bãi cạn Scarborough năm 2012. Vốn dĩ bãi cạn này không phải vô chủ, mà nằm dưới sự kiểm soát của Philippines, cách bờ biển nước này rất gần.
Người Trung Quốc đến và cướp lấy, đó là ví dụ điển hình cho vở kịch bành trướng của chủ nghĩa đế quốc.
Trung Quốc gọi bãi cạn này là “đảo” Hoàng Nham, thực ra chỉ là vài mỏm đá. Khi thủy triều lên, chỉ còn khoảng 5 đến 6 mỏm đá nhô lên mặt nước.
Tuy nhiên ngày nay Trung Quốc đã tiến hành bồi lấp quy mô lớn (bất hợp pháp) thành các đảo nhân tạo trên các cấu trúc mà họ chiếm đóng, thậm chí còn xây dựng cả đường băng hàng ngàn mét.
Nói đến đây, mọi người có thể lý giải tại sao chính phủ Trung Quốc lại không muốn giải quyết tranh chấp Biển Đông trên cơ sở UNCLOS 1982, thậm chí còn tìm cách né tránh Công ước.
Bởi vì họ thừa biết, theo quy định của UNCLOS 1982, yêu sách của họ ở Biển Đông không có sức thuyết phục.
Một là những cấu trúc này cách bờ biển Trung Quốc quá xa, hai là những cấu trúc Trung Quốc đang chiếm đóng phần lớn là các bãi cạn lúc chìm lúc nổi nên căn bản không có địa vị nào về pháp lý.
Hơn nữa cho dù họ xây dựng đảo nhân tạo trên các cấu trúc này cũng không làm thay đổi quy chế pháp lý của chúng đã được UNCLOS 1982 quy định.”
Nói Trung Quốc có “chủ quyền” với Biển Đông, Trường Sa “từ thời cổ đại”, nó là “của tổ tông để lại” là bịa đặt, vô tri
“Cách nói “Biển Đông là của tổ tiên chúng tôi để lại”, cũng giống như cách nói “Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi với khu vực này từ thời cổ đại”, bao gồm quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough.
Tập Cận Bình tuyên bố tại Singapore tháng 11 năm ngoái rằng, Trung Quốc có “chủ quyền không tranh cãi” với Biển Đông, Trường Sa từ thời cổ đại.
Xét về mặt pháp lý quốc tế, điều này có thể quy vào khái niệm “quyền lịch sử” mà Trung Quốc giải thích: họ là người đầu tiên đến đây, người đầu tiên phát hiện, người đầu tiên đặt tên, người đầu tiên quản lý khu vực này, cho dù nó cách đất liền Hoa lục rất xa.
Lưu Lộ, một luật sư nhân quyền người Trung Quốc cũng tham gia hội thảo lần thứ 23 của Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc ở New York, bàn về Biển Đông, ông cho biết:
“Một người bạn học của tôi khi đi lính (hải quân) ở Biển Đông đã bảo tôi rằng, họ thường xuyên phải lái tàu đem hàng hòm, hàng rương tiền cổ thời Tống mang (từ đất liền Hoa lục?) rải ra các đảo.
Vậy nói thẳng ra, cách nói “của tổ tiên chúng tôi để lại” có tin được không? Đáng tin đến đâu?
Bản thân tôi cũng đã nghiên cứu một số tài liệu và thấy rằng, vùng Biển Đông khoảng một ngàn năm trước hoặc xa hơn nữa, có một quá trình lịch sử diễn biến phức tạp.
Không có nhiều thời gian, tôi xin nói vắn tắt thế này: lịch sử Biển Đông về cơ bản là lịch sử đa dân tộc, đa ngôn ngữ, đa tôn giáo không ngừng giao thoa, hội nhập, diễn biến.
Có người Trung Quốc, những cũng có người Ấn Độ, Trung Đông và đặc biệt là cư dân bản địa hoạt động ở vùng biển này, là nơi giao lưu và dung hợp của nhiều dân tộc, nhiều nền văn hóa, không thể xác định ai đến trước, ai phát hiện.
Mặt khác, thời đó cũng chưa từng tồn tại khái niệm “chủ quyền” như cách hiểu hiện nay. Khái niệm “chủ quyền” ta đang dùng hiện nay, bất quá cũng mới chỉ xuất hiện cách nay quãng độ 400 năm.
Tính từ Hòa ước Westphalia năm 1648 trở đi mới dần dần hình thành nên lý luận về “chủ quyền” như hiện nay, bao gồm các yếu tố xác định về lãnh thổ, dân số, chính quyền. Trước đó chưa từng tồn tại khái niệm ấy.
“Biên giới” giữa các nước ven Biển Đông ngày nay vừa là sản phẩm của thời đại thực dân, đồng thời lại phản ánh lịch sử lâu dài và phức tạp của khu vực này.
Nhưng bất luận thế nào, quy thuộc vấn đề Biển Đông gắn vào lịch sử của một quốc gia nhất định là điều không chấp nhận được. Cái gọi là “của tổ tiên chúng tôi để lại” về mặt học thuật không chấp nhận được.
Ông Tập Cận Bình nói điều này, có lẽ là do nhu cầu chính trị, và cũng có thể phản ánh một thực tế rằng ông ấy không hiểu về chuyện này. Bởi các nhà lãnh đạo Trung Quốc, suy cho cùng cũng là sản phẩm của một nền giáo dục hạn chế.
Hiện tượng tự huyễn hoặc, tự biến mình thành tù binh của những thành kiến và tin đồn (trong vấn đề “chủ quyền” ở Biển Đông) đã không phải là chuyện hiếm gặp.”
Lịch sử đường lưỡi bò và “bãi Tăng Mẫu” là minh chứng cho sự ngụy tạo
“Một khi “quyền lịch sử” đã không đáng tin, thì cái gọi là đường 9 đoạn mà ban đầu là đường 11 đoạn có lai lịch như thế nào? Thì ra nó được vẽ vào những năm đầu của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc.
Năm 1947 Trung Hoa Dân Quốc công bố (đường lưỡi bò), nhưng từ những năm 1930 nó đã bắt đầu xuất hiện.
Bối cảnh ra đời của đường đứt đoạn là đầu những năm 1930, một chiến hạm của Pháp tới Trường Sa, cắm bia ở đảo Nam Yết và bắn 21 phát pháo để tuyên bố chủ quyền.
Thời điểm đó chính phủ Trung Hoa Dân Quốc bị kích thích bởi điều này, bèn thành lập một số cơ quan chuyên môn giống như Ủy ban Thẩm định địa đồ – đường thủy, sau đó đi quan trắc.
Nói là quan trắc cho oai, chứ kỳ thực cơ quan này chỉ dựa vào các tư liệu hàng hải dịch của phương Tây, bắt đầu vẽ bản đồ Biển Đông mới.
Gọi là “bản đồ Biển Đông mới”, vì bức Trung Hoa Dân Quốc địa lý đồ năm 1914 đã đưa quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Đông Sa (còn gọi là quần đảo Pratas) vào trong bản đồ “chủ quyền” của Trung Quốc, nhưng hoàn toàn không có Trường Sa.
Bạch My Sơ, người vẽ ra đường lưỡi bò năm 1936
Người đẻ ra đường 9 đoạn, hay còn gọi là đường chữ U, là một học giả khi đó, tên gọi Bạch My Sơ. Lần đầu tiên ông ta vẽ ra đường lưỡi bò để quây lấy Biển Đông hòng biến nó thành ao tù của Trung Quốc là năm 1936.
Thời đó lực lượng quan trắc không đủ, mà Trường Sa thì ở quá xa Trung Quốc, nên thực ra không có chuyện Trung Hoa Dân Quốc phái người ra Trường Sa đo đạc và đặt tên cho các cấu trúc.
Chính vì thế mới dẫn đến một số nhầm lẫn, ví dụ như cái Trung Quốc gọi là “bãi Tăng Mẫu”. Tăng Mẫu là cách dịch phiên âm chữ James, tên tiếng Anh thành tiếng Hán.
Nhưng ban đầu người Trung Quốc gọi nó là “bãi Tăng Mẫu”, chữ bãi này là bãi cát phẳng nổi trên mặt biển. Nhưng sau này người ta mới biết, làm gì có bãi cát nào như vậy.
James là một “bãi cát ngầm” nằm hoàn toàn dưới mặt nước biển, cách mặt nước khoảng độ 22 mét, do đặc điểm địa mạo của nó, người ta gọi nó là “bãi cát ngầm”, nó không phải đảo, không phải đá, cũng chẳng phải bãi cạn lúc nổi lúc chìm như mô tả của UNCLOS 1982, mà là một bộ phận của đáy biển.
Sở dĩ những năm 1930 Trung Hoa Dân Quốc vẽ ra bản đồ mới, đưa quần đảo Trường Sa vào trong bản đồ Trung Quốc cho dù chả có ai đến thực địa khảo sát, là vì Trung Quốc vừa trải qua thời kỳ dài bị thực dân phương Tây xâm lược, nên xem việc này như ý thức “tự cường dân tộc”.
Tâm lý bị thực dân phương Tây ức hiếp đã ảnh hưởng đến cả ý thức về vấn đề lãnh thổ. Chứ lúc đó người Trung Quốc còn chưa có ý thức về một “đại Trung Quốc”, đường chữ U ra đời trong hoàn cảnh đó.
Đương nhiên thời kỳ này không chỉ có Trung Hoa Dân Quốc yêu sách chủ quyền đối với Biển Đông, Cộng hòa Pháp cũng tuyên bố yêu sách này.
Lúc đó Việt Nam đang là thuộc địa của Pháp, nên Pháp cho rằng vùng biển phía Đông Việt Nam thuộc về Pháp, vì vậy Pháp phái chiến hạm ra Nam Yết.
Nhật Bản cũng từng tuyên bố Biển Đông là của họ, vì Nhật từng chiếm đóng đảo Đài Loan. Trong Chiến tranh Thế giới II, Nhật Bản từng xâm chiếm cả Đông Nam Á, do đó thời kỳ này Biển Đông gần như cái hồ của Nhật.
Chỉ có điều Chiến tranh Thế giới II kết thúc, Nhật Bản cũng chẳng nhắc gì đến Biển Đông nữa. Đến năm 1947, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc mới chính thức tuyên bố “chủ quyền” đối với Biển Đông và chiếm đảo Ba Bình ở Trường Sa.”
Người viết đánh giá rất cao thái độ khách quan, thượng tôn pháp luật của Giáo sư Trương Bác Thụ khi bàn về vấn đề UNCLOS 1982 và ứng xử của Trung Quốc với Công ước mà chính nước này từng rất tích cực tham gia xây dựng nên.
Đối với các học giả Trung Quốc, có được nhận thức và cách tiếp cận khách quan, trên cơ sở luật pháp quốc tế như Giáo sư Trương Bác Thụ quả thực không phải dễ dàng.
Bởi trước tiên, họ phải vượt qua chính não trạng dân tộc hẹp hòi, ích kỷ vốn đang phổ biến ở Hoa lục, liên quan đến cái gọi là “chủ quyền” ở Biển Đông, vượt qua dư luận và tư duy đám đông đã được tuyên truyền và dạy dỗ từ bé rằng: Biển Đông là của tổ tiên người Trung Quốc để lại.
Có thể chính họ sẽ bị các đồng nghiệp trong nước “ném đá”, bị các cơ quan truyền thông Trung Quốc chỉ trích và chụp cho đủ thứ mũ như Hán gian, phản quốc, nhưng họ quyết sống đúng với lương tâm, trách nhiệm của người trí thức có hiểu biết, thượng tôn pháp luật.
Những thông tin liên quan đến chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa mà tác giả nêu ra trong bài này, xuất phát từ góc nhìn của Giáo sư Trương Bác Thụ, mà rất có thể do nhiều nguyên nhân, ông chưa có điều kiện tham cứu hết hồ sơ pháp lý của các bên, đặc biệt là của Việt Nam.
Bởi quá trình xác lập và thực thi chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được Nhà nước Việt Nam thực hiện từ thời các chúa Nguyễn, một cách hòa bình, hợp pháp và liên tục.
Chính quyền Cộng hòa Pháp sau này là đại diện cho Nhà nước Việt Nam về mặt đối ngoại, tiếp tục thực thi chủ quyền đối với 2 quần đảo này, trước khi người Trung Quốc can thiệp và tìm cách chiếm đoạt, xâm lược, chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa và một số cấu trúc ở Trường Sa.
Những nội dung này đã được Tiến sĩ Trần Công Trục nhiều lần phân tích trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, điển hình như bài viết Những băn khoăn, thắc mắc về vấn đề chủ quyền quần đảo Trường Sa đăng ngày 3/8/2016.