Từ cuối năm 2011, Mỹ đã thực hiện “chính sách xoay trục” sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tháng 10/2011, Ngoại trưởng Mỹ khi đó là bà Hillary Clinton đã khẳng định: Nước Mỹ “chuyển hướng một cách chiến lược sang khu vực này… nhằm đảm bảo và duy trì vai trò lãnh đạo thế giới của nước Mỹ”. Vậy hơn 4 năm qua, nước Mỹ đã xoay trục như thế nào sang châu Á?
Tổng thống Mỹ Donald Trump ký Sắc lệnh rút khỏi hiệp định TPP. Ảnh:Reuters.
Ngày 30/1 vừa qua, Theo Đài RFA, Tham tán chính trị của Đại sứ quán Mỹ tại Australia, ông John Hennessey-Niland đã có bài phát biểu quan trọng trong cuộc thảo luận về quan hệ chiến lược Mỹ-Nhật Bản-Australia diễn ra tại Canberra. Ông John cho rằng, mặc dù Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ có chính sách ngoại giao mới, nhưng nước này vẫn tiếp tục duy trì vai trò quan trọng ở châu Á-Thái Bình Dương để đảm bảo quyền lợi của Mỹ cũng như của các đồng minh.
Ông Jonh nhấn mạnh, chính sách có thể thay đổi nhưng quyền lợi của Mỹ và đồng minh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ không đổi, hứa hẹn những cuộc tập trận chung và mức độ chia sẻ tin tức sẽ gia tăng.
Người ta nhớ lại khi vận động tranh cử, Ông D.Trump từng nói rằng, những quốc gia châu Á phải tự bảo vệ an ninh quốc phòng thay vì trông chờ vào sự giúp đỡ của Mỹ, đồng thời cũng chỉ trích Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) là một tổ chức lỗi thời.
Vậy nhưng khi đón Thủ Tướng Anh Theresa May hôm 27/1 tại Nhà Trắng, Tổng thống Trump lại quay ngoắt 180 độ. Ông tuyên bố ủng hộ NATO 100%. Ngay lập tức bà Amy Searights, cựu Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ phụ trách Nam Á và Đông Nam Á của Chính phủ Barack Obama cho rằng, không nên quá chú trọng đến những gì Tổng thống Trump nói lúc vận động tranh cử. Bởi vì tháng 2 tới, Tổng thống Mỹ sẽ đón Thủ Tướng Nhật Bản Shinzo Abe để bàn thảo về quan hệ đồng minh chiến lược.
Bà Amy Searights cũng nhắc lại tầm quan trọng của quan hệ chiến lược giữa Mỹ với Nhật Bản và Australia trong chiến lược xoay trục về châu Á mà cựu Tổng thống Obama thực hiện. Chiến lược đó dù thời Tổng thống nào cũng là sự hữu ích để ngăn chặn hành động bành trướng quân sự của Trung Quốc.
Hiện Tổng thống Trump có kế hoạch tăng cường sức mạnh cho Hải quân Mỹ, cụ thể là đưa số tàu chiến từ 270 chiếc lên 350 chiếc, đồng nghĩa với việc Mỹ sẽ đưa thêm tàu chiến vào hoạt động ở khu vực Thái Bình Dương và tại Biển Đông.
Giới phân tích cho rằng, “chính sách xoay trục” của Mỹ đạt kết quả tốt hơn ở Đông Bắc Á – nơi Nhật Bản và Hàn Quốc không còn công khai bày tỏ hoài nghi về những cam kết đảm bảo an ninh của Mỹ nữa. Mặc dù cả hai nước vẫn còn lo ngại về mối đe dọa đến từ Triều Tiên cũng như tham vọng của Trung Quốc. Tuy nhiên, việc phía Mỹ tái khẳng định rằng quần đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư) nằm trong hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật – đã giúp Wasinhton ghi điểm tại khu vực. Và việc nền kinh tế Trung Quốc trở nên “loạng choạng” sau 30 năm tăng trưởng ngoạn mục đã làm giảm bớt những nghi ngại về thách thức của Bắc Kinh đối với trật tự trong khu vực.
Đông Bắc Á thì như vậy,tiếc rằng ở Đông Nam Á, chính sách xoay trục của Mỹ chưa đạt kết quả như mong muốn. Ở Đông Bắc Á, Mỹ hành xử như một đồng minh thì ở Đông Nam Á, Mỹ có cách hành xử thiên về hướng một nhà kiến tạo hòa bình. Sự khác biệt nàythể hiện rõ nhất qua cách tiếp cận của Mỹ đối với những tranh chấp lãnh thổ. Mỹ không đưa ra quan điểm rõ ràng trước những tuyên bố chủ quyền khác nhau trên Biển Đông, và thường xuyên tạo ấn tượng rằng nước này không ủng hộ cả đồng minh lẫn đối tác của họ ở Đông Nam Á trong các cuộc tranh chấp giữa những nước này với Trung Quốc. Có thể những tranh chấp này sẽ tiếp tục dai dẳng, cho dù nền kinh tế Trung Quốc đang bị chao đảo.
Các nước Đông Nam Á muốn được đảm bảo rằng Mỹ sẽ ủng hộ họ, song lại không muốn bị lôi kéo vào cuộc xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc. Còn chính phủ mới của ông D. Trump cũng rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Mỹ luôn bị giằng xé giữa những mục tiêu khác nhau. Mỹ muốn các đồng minh của mình có cảm giác được bảo vệ, song cũng không muốn bị lôi kéo vào các cuộc xung đột không cần thiết.
Thấy rõ sự lưỡng lự này, Trung Quốc mặc sức dấn tới, rõ nhất là các hoạt động quân sự hóa trên Biển Đông. Và Trung Quốc được đánh giá là “rắn mặt” hơn Mỹ trong việc theo đuổi những mục tiêu chiến lược tại khu vực biển Nam Trung Hoa. Trong bối cảnh đó, liệu các mối quan hệ an ninh của Mỹ tại châu Á có đủ mạnh để trấn an các đồng minh về sự can dự của Mỹ? Và liệu những quan hệ này có được coi là“lạt mềm” để “buộc chặt” các nước đồng minh đó. Mỹ có thể đảm bảo với các đồng minh rằng, những nhu cầu an ninh của họ sẽ được đáp ứng mà không cần phải viện đến những phương án chiến lược cực đoan, hay những chính sách phiêu lưu nào khác?
Dư luận thế giới cho rằng, Mỹ cần phải khẳng định dứt khoát việc duy trì trật tự an ninh tại khu vực một cách mạnh mẽ. Nước Mỹ cần phải huy động các cường quốc đang nổi lên tại châu Á cùng tham gia duy trì trật tự – một trật tự sẽ vẫn đem lại cho khu vực sự ổn định, tự do và thịnh vượng.
Nước Mỹ đang nỗ lực tìm kiếm một Ấn Độ, một Indonesia, hay một Australia có trách nhiệm hơn, chứ không phải chỉ là những quốc gia đứng ngoài ngó nghiêng, mặc cho “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại” như một câu ngạn ngữ Việt. “Chính sách xoay trục” không phải là công cụ để khôi phục vị thế vượt trội của Mỹ tại khu vực thời kỳ những năm 1990. Thay vào đó, phải là một cơ chế để tạo thời gian cho sự nổi lên của một loạt cường quốc tích cực tham gia giải quyết các vấn đề khu vực.