Friday, December 27, 2024
Trang chủNhìn ra thế giớiVai trò của các cơ chế đa phương trong giải quyết tranh...

Vai trò của các cơ chế đa phương trong giải quyết tranh chấp chủ quyền Biển Đông hiện nay

          Tranh chấp Biển Đông đã trở thành mối quan tâm và quan ngại chung trong cộng đồng quốc tế, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc liên tục gia tăng các hành động đơn phương trên thực địa và tìm cách áp đặt cơ chế giải quyết song phương các tranh chấp. Tuy nhiên, trên thực tế phương thức đàm phán đa phương đang đóng vai trò hết sức quan trọng, đánh dấu những tiến bộ trong tiến trình giải quyết bất đồng. Những nỗ lực vượt bậc của các bên trực tiếp và không trực tiếp liên quan đến tranh chấp đang góp phần vào việc ngăn ngừa xung đột, thúc đẩy hợp tác để Biển Đông tiếp tục là khu vực hòa bình.

Tranh chấp Biển Đông là mối quan ngại chung trong cộng đồng quốc tế

Biển Đông là một trong những vùng biển chiến lược quan trọng nhất trên thế giới với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, trữ lượng dầu mỏ, khí đốt dồi dào, tập trung nhiều tuyến giao thông hàng hải quốc tế quan trọng, được mệnh danh là “con đường tơ lụa trên biển” nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông hiện nay ngày càng diễn biến phức tạp, đã và đang tác động lớn đến môi trường hòa bình ổn định của khu vực, chủ quyền và lợi ích của nhiều nước. Vì vậy, Biển Đông có một vai trò hết sức to lớn không chỉ đối với các quốc gia có tuyên bố chủ quyền, các quốc gia ven biển mà còn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhiều nước trên thế giới.

Đối với các nước Đông Nam Á, Biển Đông ở vị trí trung tâm của khu vực. Hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á đều có lợi ích hoặc được hưởng lợi ích do vị trí địa chính trị đặc biệt của Biển Đông mang lại. Trong số 11 quốc gia khu vực Đông Nam Á, có đến 8 nước là các quốc gia ven Biển Đông bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Singapore, Thái Lan, Campuchia. Ba quốc gia còn lại là Myanmar, Lào và Đông Timor, mặc dù không phải là quốc gia ven Biển Đông, nhưng được hưởng nhiều lợi ích từ vị trí địa chính trị quan trọng của Biển Đông. Theo ước tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của khoảng 300 triệu dân ở các nước xung quanh… Tuy nhiên, sau Chiến tranh lạnh, việc xuất hiện “khoảng trống quyền lực”, sự công khai đòi hỏi chủ quyền của nhiều nước ở Biển Đông, cộng với sự hiện đại hóa lực lượng Hải quân của Trung Quốc đã khiến nhiều nước trong khu vực lo ngại về những diễn biến phức tạp ở Biển Đông có thể tác động tiêu cực đến môi trường hòa bình ổn định phát triển ở khu vực. Trong những năm gần đây, vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, đặc biệt là vấn đề tranh chấp chủ quyền vẫn diễn biến căng thẳng, phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột, thực sự là một trong những thách thức lớn đối với tất cả các nước trong khu vực. Nếu vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp, hoặc nổ ra xung đột sẽ tác động lớn đến môi trường hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực cũng như lợi ích của tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á. Chính vì vậy, vấn đề Biển Đông luôn là một trong những nội dung quan trọng trong các chương trình nghị sự của ASEAN và của ASEAN với các đối tác. Các nước ASEAN đều mong muốn thông qua quan hệ song phương và đa phương với các nước lớn để cân bằng quyền lực với Trung Quốc, giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông bằng con đường hòa bình, tạo dựng môi trường hòa bình ổn định và phát triển ở khu vực.

Đối với quốc tế, Biển Đông là một trong những khu vực có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trên thế giới, là một yếu tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế biển, an ninh quốc phòng, an ninh biển của nhiều nước, nhất là các cường quốc hải dương, các quốc gia có tiềm lực kinh tế, quốc phòng phụ thuộc vào biển. Biển Đông có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhiều nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nhất là về kinh tế và thương mại. Biển Đông là vùng biển giàu có về nguồn lợi thủy sản, là một trong những ngư trường lớn nhất thế giới với lượng hải sản đánh bắt, chiếm khoảng 10% của thế giới, là nơi dự trữ lượng dầu mỏ ước tính bằng 80% lượng dầu mỏ và khí đốt của Ả Rập Saudi, là con đường vận tải ngắn nhất nối Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, là nơi có 5/10 tuyến giao thông hàng hải lớn nhất thế giới, cùng eo biển Malacca nhộn nhịp thứ 2 trên thế giới với gần 50% lượng hàng hóa thương mại vận chuyển bằng đường biển phải đi qua khu vực này và 55% hàng hóa xuất nhập khẩu của các nước Đông Nam Á, 45% khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Nhật Bản và 26% hàng hóa xuất nhập khẩu của các nước công nghiệp mới được vận chuyển qua Biển Đông. Biển Đông được coi là “nút thắt” sống còn của châu Á, nơi có các tuyến đường huyết mạch của thế giới. Kiểm soát được Biển Đông sẽ giúp các cường quốc giành ưu thế Hải quân tại Tây Thái Bình Dương. Kiểm soát được Biển Đông sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thiết lập vai trò quốc gia đối với cả một khu vực rộng lớn ở Đông Á và Đông Nam Á. Theo các nhà nghiên cứu quân sự, trên Biển Đông có hai khu vực trọng yếu là eo Malacca và khu vực quần đảo Trường Sa. Hầu hết các tuyến đường không, đường biển qua Biển Đông đều phải đi qua hai khu vực này. Nếu giành quyền kiểm soát được một trong hai khu vực này sẽ trực tiếp khống chế được toàn bộ khu vực từ eo biển Malacca đến Nhật Bản, khống chế được nhiều tuyến giao thông đường không, đường biển từ Singapore sang Hồng Công, từ Quảng Đông đến Malila, thậm chí từ châu Phi sang châu Á, từ Đông Á sang Nam Á. Do vậy, đối với các nước lớn, giành quyền kiểm soát Biển Đông sẽ giúp họ thực hiện tham vọng cường quốc hải dương, cường quốc thế giới. Và đó cũng chính là một trong những lý do gần đây Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động tôn tạo, mở rộng các đảo ở Trường Sa bất chấp phản ứng của cộng đồng quốc tế và tìm cách hợp tác với Thái Lan xây dựng kênh đào Kra để “đề phòng” Mỹ và đồng minh phong tỏa các tuyến hàng hải từ Ấn Độ Dương về Trung Quốc qua eo Malacca…

Các cơ chế đa phương trong giải quyết tranh chấp Biển Đông hiện nay

Một là, Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN (AMM) và cuộc họp các quan chức cấp cao ASEAN (ASEAN SOM). Tại hai hội nghị này, nhiều vấn đề liên quan đến an ninh biển và hợp tác trên biển đã được đưa ra thảo luận. Tháng 10/2010, ASEAN đã ra Tuyên bố hợp tác tìm kiếm, cứu nạn đối với tàu thuyền và người đi biển gặp nạn. Sau khi ra Tuyên bố này, các nước đã tổ chức Hội thảo về tìm kiếm, cứu nạn trên Biển Đông vào Tháng 6/2013. Các cuộc họp AMM và ASEAN SOM cũng trực tiếp chỉ đạo hoạt động của các nhóm làm việc chung giữa Trung Quốc và ASEAN trong việc triển khai Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và hướng tới đàm phán ký kết Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Đây là cơ chế hiệu quả giữa ASEAN và Trung Quốc, góp phần giữ gìn hòa bình, an ninh, ổn định trong khu vực. Tháng 5/2017, Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN – Trung Quốc đã đạt được Kế hoạch làm việc cho giai đoạn 2016-2018, tập hợp các dự án và hoạt động giữa Trung Quốc và ASEAN hỗ trợ cho việc triển khai DOC. Cũng tại AMM và ASEAN SOM với đối tác Trung Quốc nhiều thỏa thuận đạt được về biển đã được thông qua như việc thiết lập đường dây nóng giữa các quan chức cấp cao Bộ Ngoại giao Trung Quốc và các nước để ứng phó với các tình huống khẩn cấp trên biển, Tuyên bố chung về việc áp dụng bộ quy tắc ứng xử đối với tàu thuyền ở Biển Đông trong trường hợp đối đầu bất ngờ. Trung Quốc và các nước ASEAN cũng đang thảo luận về khả năng thành lập đường dây nóng giữa lực lượng cảnh sát biển các bên và cơ chế chia sẻ dữ liệu về hoạt động của cảnh sát biển các nước. Tại cuộc họp Thượng đỉnh ASEAN – Trung Quốc lần thứ 20, các bên cũng thông qua Tuyên bố về Thập kỷ bảo vệ môi trường biển và bờ biển ở Biển Đông giai đoạn 2007 – 2017.

Hai là, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF). ARF được thành lập năm 1994 nhằm thúc đẩy cơ chế đối thoại và tham vấn về các vấn đề an ninh và chính trị trong khu vực, xây dựng lòng tin và phát triển ngoại giao phòng ngừa. Khẩu hiệu của ARF là “Xúc tiến hòa bình và an ninh qua đối thoại và hợp tác ở châu Á Thái Binh Dương”. ARF bao gồm 27 quốc gia có cùng mối quan tâm đến an ninh khu vực châu Á Thái Bình Dương. Đó là 10 quốc gia thành viên của ASEAN; 10 nước đối tác đối thoại của ASEAN (bao gồm Australia, Canada, Trung Quốc, EU, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc, Nga và Mỹ), một quan sát viên của ASEAN (Papua New Guinea), cùng với Triều Tiên, Mông Cổ và Pakistan. Đông Timo được kết nạp vào ARF vào năm 2005. Tại diễn đàn ARF hàng năm, các nước đều bàn thảo về tình hình an ninh khu vực, trong đó Biển Đông là chủ đề trọng tâm được các nước đặc biệt quan tâm. Nhìn chung, các nước đều thể hiện quan điểm ủng hộ các hoạt động đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông và phản đối mọi hành vi thay đổi hiện trạng bằng vũ lực; giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông là bằng biện pháp hòa bình, trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Tuyên bố chung về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).

Ba là, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng (ADMM) và Bộ trưởng Quốc phòng mở rộng (ADMM+). ADMM và ADMM+ là cơ chế hợp tác, tham vấn cấp bộ trưởng cao nhất về các vấn đề an ninh và quốc phòng giữa các thành viên ASEAN và 8 nước đối thoại. Tại Hội nghị ADMM lần thứ 12 và ADMM+ lần thứ 5 hôm 19-20/10 vừa qua, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ASEAN đã nhất trí thông qua các sáng kiến về hợp tác chống khủng bố, trong đó có việc thiết lập mạng lưới các chuyên gia về vũ khí sinh học, hóa học và phóng xạ; thông qua quy tắc hướng dẫn tránh va chạm không mong muốn của máy bay quân sự. Về vấn đề an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không, các Bộ trưởng ASEAN có sự thống nhất cao, thể hiện bằng Tuyên bố chung của Hội nghị ADMM-12; trong đó tái khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh, ổn định, an toàn, tự do hàng hải và hàng không tại Biển Đông, sự cần thiết phải tăng cường lòng tin, tự kiềm chế, tránh có các hành động làm phức tạp thêm tình hình, và xử lý các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS).

Bốn là, Diễn đàn biển ASEAN (AMF) và Diễn đàn biển ASEAN mở rộng (EAMF). AMF được thành lập từ năm 2010 nhằm xây dựng một cơ chế đa phương trong khuôn khổ ASEAN để giải quyết các vấn đề Biển. EAMF lần đầu tiên được tổ chức tại Manila, Philippines từ 3-5/10/2012 dưới hình thức kênh bán chính thức nhằm tăng cường phối hợp giữa ASEAN với các đối tác trong giải quyết các vấn đề Biển. Tại cả hai Diễn đàn, các nước ASEAN và các nước đối tác Đông Á đã trình bày quan điểm quốc gia về an ninh biển, trao đổi về tăng cường hợp tác biển tại khu vực, trong đó có việc phối hợp, hợp tác liên ngành về an ninh, an toàn hàng hải; phòng chống cướp biển; tăng cường kết nối; xây dựng hạ tầng biển; nâng cao năng lực, đào tạo thủy thủ; bảo vệ môi trường biển và hợp tác về nghề cá, du lịch sinh thái biển… Các nước đều nhất trí tranh thủ tăng cường các cơ hội hợp tác và xây dựng lòng tin, đi đôi với bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải nhằm xây dựng môi trường thuận lợi cho hợp tác biển. Theo đó, đối với các tranh chấp trên biển, các nước một lần nữa nhấn mạnh việc tôn trọng luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển 1982 (UNCLOS), cũng như các văn kiện, thỏa thuận khu vực có liên quan như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) Tuyên bố về 6 Nguyên tắc trên Biển Đông;… đồng thời nhấn mạnh việc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình, tránh để tranh chấp leo thang thành xung đột.

Năm là, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS). EAS là một diễn đàn gồm các quốc gia ở châu Á được các lãnh đạo của 16 quốc gia Đông Á và khu vực lân cận tổ chức mà ASEAN là trung tâm. Nga, Mỹ tham gia vào năm 2005 và đang tham dự với tư cách là quan sát viên. Hội nghị lần đầu tiên được tổ chức ở Kuala Lumpur vào ngày 14/12/2005 và các cuộc họp tiếp theo sẽ được tổ chức sau các cuộc họp thường niên của lãnh đạo của ASEAN. Tại tại Hội nghị Bộ trưởng các nước tham gia Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) lần thứ 8 diễn ra ngày 4/8/2018 tại Singapore, các nước nhất trí tăng cường hợp tác hơn nữa trong lĩnh vực hàng hải, bao gồm cả vấn đề xử lý rác thải trên biển. Liên quan đến Biển Đông, các bộ trưởng chia sẻ quan ngại về các hoạt động quân sự hóa, diễn biến phức tạp tại Biển Đông thời gian gần đây, đề nghị các bên tăng cường đối thoại, hợp tác trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế. Trước đó, tại Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) lần thứ 12 tổ chức tại tại Manila, Philippines (11/2017), các nước nhất trí bổ sung “hợp tác biển” trở thành lĩnh vực ưu tiên mới với mục tiêu tăng cường hợp tác trong chia sẻ thông tin, nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường biển và ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống trên biển. Những thách thức này bao gồm nạn cướp biển, cướp có vũ trang, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm biển, tai nạn hàng hải. Các nước cũng trao đổi sâu về tình hình quốc tế và khu vực, bày tỏ quan ngại về diễn biến trên bán đảo Triều Tiên, ở Biển Đông và tình hình ở bang Rakhine của Myanmar trong thời gian gần đây.

Quan điểm giới chuyên gia, học giả quốc tế và khu vực

Đa phần các ý kiến của giới chuyên gia, học giả quốc tế các nước đều cho rằng vấn đề Biển Đông là một vấn đề chung của cộng đồng quốc tế và cần thiết phải giải quyết thông qua các cơ chế đàm phán đa phương, trong đó ghi nhận tất cả các nỗ lực chung của các nước nhằm giải quyết hoà bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế. Tiến sĩ Mark Valencia của Viện Nautilus (Mỹ) cho rằng “Trung Quốc viện dẫn một điều khoản trong DOC cho rằng giải pháp của bất đồng trên biển Đông chỉ nên được giải quyết giữa các bên liên quan. Trong khi đó, ASEAN khẳng định phương thức đàm phán của mình nhằm hướng tới bộ quy tắc điều chỉnh hành vi”. Theo ông, ASEAN quan điểm “mọi đàm phán liên quan đến vấn đề biển Đông hoàn toàn có thể dựa trên cơ sở đa phương”. Các chuyên gia quốc tế cho rằng vì tính cần thiết của việc duy trì phương thức đàm phán đa phương, ASEAN càng phải gắn kết hơn bao giờ hết để đảm bảo một COC chính thức và có tính ràng buộc pháp lý ra đời. Tiến sĩ Valencia khẳng định: “ASEAN phải có quan điểm trung lập, hướng tới tương lai và khuyến khích giải pháp hòa bình cho tất cả các vấn đề trên biển Đông”. Thế nhưng, ngay cả những nước ASEAN được coi là có vai trò trung lập trong tiến trình đàm phán COC cũng có thể đánh mất vai trò này, xuất phát từ một vấn đề muôn thuở: yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc. Các chuyên gia cho rằng câu chuyện này vẫn cứ tiếp tục diễn ra theo chiều hướng xưa nay vẫn thế: Trung Quốc viện dẫn “đường lưỡi bò” để biện minh cho các hành động của mình trên biển Đông; các chuyên gia trung lập quốc tế tiếp tục phản bác tính giá trị của nó. Thế nhưng, chủ đề trên vẫn tiếp tục là điểm nóng bàn luận tại các cuộc hội thảo quốc tế. Tiến sĩ Valencia chỉ rõ: “Không có gì mới, nhưng đường lưỡi bò ảnh hưởng rất nhiều đến tiến trình đàm phán COC. Vì nếu Trung Quốc tiếp tục mập mờ về các chứng cứ nhằm tuyên bố cái gọi là chủ quyền, đường lưỡi bò sẽ bao trùm luôn cả vùng kinh tế đặc quyền của Indonesia, nước đang có nhiều nỗ lực trung gian trong tiến trình giải quyết các bất đồng biển Đông”. Trong khi đó, Giáo sư Ben Schreer thuộc trường Đại học Macquarie (Australia), chỉ trích cách Trung Quốc tiếp tục biến Biển Đông thành “ao hồ” của mình. Giáo sư Screer cho rằng, thế giới cần coi vấn đề tranh chấp ở Biển Đông là một “sân khấu trên biển rộng lớn”, có liên quan tới nhiều khu vực khác của châu Á. Học giả Terashima Hiroshi​, Nguyên Chủ tịch Viện Nghiên cứu Chính sách Biển (SPF), đã đưa những chiến lược tiếp cận vấn đề Biển Đông như tăng cường đối thoại, tiếp xúc giữa các bên liên quan, giữa các học giả nhằm diễn giải, chia sẻ trật tự pháp lý, xây dựng nền tảng cơ bản giải quyết tranh chấp trên biển, duy trì an ninh hàng hải; hỗ trợ các quốc gia ASEAN, đặc biệt là các quốc gia ven biển Đông khả năng thực thi Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) và đảm bảo an ninh hàng hải. Giáo sư Jagannath Panda, Viện Phân tích và Nghiên cứu Quốc phòng Ấn Độ đề xuất giải pháp về một hiệp định hàng hải giữa các nước trong khu vực, nhấn mạnh tự do hàng hải, yếu tố đang làm sâu sắc hơn mối quan hệ kinh tế, thương mại giữa các quốc gia, đồng thời đưa ra nhưng cơ chế hợp tác cân bằng về an ninh. Giáo sư Gregory Moore, Đại học Nottingham (Anh) khẳng định các quốc gia tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông cần hợp tác và đối thoại để giải quyết vấn đề.

Các nhân tố ảnh hưởng đến các cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương

Nhân tố thứ nhất đó là Mỹ.Chúng ta biết rằng, Mỹ là nước công khai tuyên bố ủng hộ tự do hàng hải trên Biển Đông và giải quyết mọi tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình. Trong năm 2017, Mỹ có sự thay đổi quan trọng trong chương trình nghị sự châu Á – Thái Bình Dương: chấm dứt thời kỳ “xoay trục” dưới thời Obama và rút lui khỏi TPP. Ở mặt này, Mỹ dự kiến sẽ tăng cường các hoạt động quốc phòng, ngoại giao và kinh tế trong khu vực để làm giảm ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Phản ứng của Mỹ đối với các tranh chấp trên Biển Đông chủ yếu là các hoạt động mang tính “danh nghĩa”. Tháng 1/2017, người phát ngôn nhà trắng Mỹ Sean Spicer đã tuyên bố trước báo chí rằng “Mỹ sẽ bảo vệ các lãnh thổ quốc tế khỏi bị kiểm soát bởi bất kỳ một quốc gia nào”. Vào tháng 5/2017, Hải quân Mỹ đã bắt đầu tiến hành các hoạt động duy trì tự do hàng hải (FONOP) ở Biển Đông và cho đến tháng 10/2017 đã thực hiện bốn hoạt động tự do hàng hải.

Nhân tố thứ hai là Trung Quốc. Đối với nước này, tranh chấp trên Biển Đông sẽ vẫn là một trong những mối quan ngại hàng đầu, đặc biệt là với việc thực hiện “Sáng kiến vành đai, con đường” (BRI) ​​đầy tham vọng. Vì dự án này bao gồm một “con đường tơ lụa” trên biển kết nối châu Á, châu Âu và châu Phi từ vùng Biển Đông và phía nam Trung Quốc đến Địa Trung Hải, Trung Quốc có quyền lợi rất lớn trong việc đảm bảo an ninh và điều hướng trong vùng Biển Đông. Đối với Trung Quốc, khẳng định chủ quyền trên Biển Đông không chỉ có ý nghĩa về mặt quyền lợi kinh tế mà còn cả ý nghĩa về mặt chính trị – lịch sử. Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố có chủ quyền lịch sử với một số khu vực ở Biển Đông, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong giai đoạn 2014-2017, Trung Quốc tăng cường cải tạo các bãi đá ở Trường Sa và phản đối phán quyết của Toà trọng tài thường trực (PCA). Tháng 8/2017 Trung Quốc phản ứng mạnh mẽ khi Việt Nam và công ty dầu khí Repsol của Tây Ban Nha tiến hành khoan thăm dò ở Biển Đông, dẫn tới việc phải ngừng khoan thăm dò. Đó là những dấu hiệu rõ ràng cho thấy Trung Quốc có khả năng và sẵn sàng phản ứng rất mạnh mẽ với những hành động của các quốc gia khác mà Trung Quốc tin rằng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ trên Biển Đông. Trung Quốc cũng phản đối sự can thiệp của các nước bên ngoài vào tình hình Biển Đông. Về mặt chiến lược, việc nước Mỹ rút lui khỏi liên minh với các nước trong khu vực trong giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông sẽ tạo ra một khoảng trống quyền lực thuận lợi cho Trung Quốc. Những cam kết rõ ràng của chính quyền Trump về chủ nghĩa bảo hộ trong nước đã khiến cho Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu mới trong hợp tác dự do thương mại như với hiệp định tự do thương mại ba bên Trung Quốc – Nhật Bản – Hàn Quốc. Những hành động đó của chính quyền Trump khiến nhiều đồng minh của Mỹ ở trong khu vực bị sốc, đe dọa phá vỡ thế cân bằng quyền lực ở khu vực. Và kết quả là Trung Quốc có thể chiếm ưu thế và gia tăng yêu sách của mình trên Biển Đông.

Nhân tố quan trọng thứ ba chính là ASEAN. ASEAN và Trung Quốc đã đạt được một mốc quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông vào năm 2017, đó là thông qua dự thảo về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), kế thừa Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Mặc dù đây là bước đi đúng hướng, nhưng khung dự thảo đã không đề cập đến tính pháp lý của COC, phạm vi áp dụng và cơ chế để đảm bảo tính tuân thủ bộ quy tắc trên. Một vấn đề khác liên quan đến Philippines, kể từ khi Tổng thống Philippines Duterte lên làm Tổng thống thì quốc gia đã giành chiến thắng sau phán quyết của Tòa trọng tài thường trực năm 2016 này lại chuyển hướng ngày càng gia tăng mối quan hệ thân Trung Quốc. Cùng với thái độ, ứng xử của Campuchia, ASEAN đã bị chia rẽ trong vấn đề Biển Đông, khiến cho các cơ chế đàm phán đa phương trong khuôn khổ tổ chức này kém hiệu quả.

ASEAN cần đóng vai trò trung tâm, nòng cốt

ASEAN là Tổ chức duy nhất của khu vực Đông Á, là tổ chức sáng lập và chủ trì các cơ chế, diễn đàn hợp tác và an ninh khu vực như ASEAN+3 (10 nước ASEAN và ba nước Đông Bắc Á gồm Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM Plus), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS)… Như Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch tại Đối thoại Shangri-La 2018: “ASEAN là một mẫu hình hợp tác, liên kết thành công của các nước vừa và nhỏ; ngày càng đóng vai trò tích cực, trung tâm cho những nỗ lực chung; định hình cấu trúc an ninh, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định của châu Á – Thái Bình Dương. Thực tế đã khẳng định một ASEAN đoàn kết, thống nhất có lợi cho tất cả các nước thành viên và các nước đối tác trong quản lý xung đột, đảm bảo an ninh, ổn định khu vực trên cơ sở lợi ích chung và lợi ích của mỗi quốc gia, phù hợp với luật pháp quốc tế. Trọng tâm của ASEAN là nâng cao năng lực bảo đảm an ninh; thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và hợp tác tìm các phương pháp giải quyết xung đột; cùng với các nước thiết lập một trật tự an ninh vững chắc. Hiện có nhiều cơ chế do ASEAN đóng vai trò trung tâm như: Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Diễn đàn Biển ASEAN (AMF), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM)… Đặc biệt là cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), đã tập hợp rộng rãi các quốc gia khu vực châu Á và các quốc gia đối tác, có vai trò quan trọng để thúc đẩy đối thoại, tiếp xúc cấp cao nhằm xây dựng lòng tin, triển khai hợp tác đa dạng, đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống trên nhiều lĩnh vực”. ASEAN cần phát huy đoàn kết nội khối và sự đồng thuận cao, thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin, xây dựng thể chế vững mạnh, nâng cao vị thế và tiếng nói chung của ASEAN trong việc đảm bảo lợi ích của các quốc gia thành viên về tranh chấp tại Biển Đông. Điều này sẽ góp phần tiếp tục thúc đẩy sự ủng hộ và quyết tâm xây dựng bộ Quy tắc ứng xử Biển Đông (COC) của tất cả các nước thành viên ASEAN, tạo tiếng nói chung và kế hoạch hành động thiết thực, mạnh mẽ hơn trên trường khu vực và quốc tế khi giải quyết các vấn đề liên quan đến hòa bình và ổn định khu vực. Các nước ASEAN và Trung Quốc đã chính thức thông qua dự thảo khung Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) vào ngày 06/8/2017 và đang tiếp tục tiến trình này, song kết quả còn phụ thuộc nhiều yếu tố.

Lập trường nhất quán của Việt Nam

Trong những năm qua, tình hình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định cho khu vực và thế giới. Vì vậy, vấn đề Biển Đông luôn là mối quan tâm của các nước trong khu vực, các nước lớn và cả cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông là quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp, bởi liên quan đến nhiều nước, nhiều bên. Đối với Việt Nam, giải quyết vấn đề này được đặt trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và trong chính sách đối ngoại hòa bình, độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam là giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông là bằng biện pháp hòa bình, trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Tuyên bố chung về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Các vấn đề tranh chấp liên quan đến song phương thì giải quyết qua kênh song phương, các vấn đề liên quan đến nhiều bên thì giải quyết qua kênh đa phương, dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và thông qua các biện pháp hoà bình.

Về bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông, Việt Nam hoan nghênh và đánh giá cao nỗ lực cũng như đóng góp mang tính xây dựng của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề này; ủng hộ các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phù hợp với luật pháp quốc tế, triển khai thực hiện đầy đủ DOC và khuyến khích các bên xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Là một thành viên tích cực và có trách nhiệm trong ASEAN và cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã, đang nỗ lực cùng các thành viên ASEAN và Trung Quốc thúc đẩy việc bàn thảo, nhằm sớm đạt được COC, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển ở Biển Đông và trên toàn thế giới.

RELATED ARTICLES

Tin mới