Bất chấp Chiến tranh thương mại mà chính quyền Washington phát động với Bắc Kinh, Trung Quốc vẫn là thị trường ưu tiên đối với giới kinh doanh Mỹ.
Theo nghiên cứu của HSBC, bất chấp cuộc chiến tranh thương mại mà chính quyền Washington đang phát động với Bắc Kinh, các công ty xuất khẩu của Mỹ và của nhiều quốc gia đồng minh khác vẫn xem Trung Quốc như một thị trường ưu tiên hàng đầu.
Có 1205 công ty đã tham gia cuộc khảo sát của HSBC. Số liệu nghiên cứu chỉ rõ, hơn một nửa trong số tất cả các công ty xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài có kế hoạch tăng cường sự hiện diện của họ tại thị trường Trung Quốc, bất chấp những phát ngôn cứng rắn từ phía chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Doanh nghiệp của Mỹ và đồng minh ‘rất cần Trung Quốc’
Ngay cả đối với Mỹ, 40% các công ty nước này nêu danh Trung Quốc là thị trường chính mà họ có kế hoạch tăng doanh số bán sản phẩm và dịch vụ trong những năm tới.
Vừa qua, Hoa Kỳ đã không gửi một quan chức cấp cao nào đến Triển lãm Xuất khẩu Quốc tế Trung Quốc lần thứ I ở Thượng Hải (EXPO Thượng Hải, CIIE), viện cớ có những khác biệt cơ bản trong các vấn đề thương mại và chính sách công nghiệp giữa hai quốc gia.
Thế nhưng, Hoa Kỳ đứng thứ ba về số lượng các công ty tham gia sự kiện tại triển lãm EXPO Thượng Hải và trong hơn 130 gian hàng của các doanh nghiệp Mỹ, 500 loại sản phẩm khác nhau đã được trình bày giới thiệu.
Ngoài ra, Trung Quốc vẫn là thị trường ưu tiên cho nhiều quốc gia có truyền thống là đồng minh chính trị của Mỹ như Hàn Quốc, Australia, UAE, Pakistan..; từ rất lâu trước đây, Bắc Kinh đã trở thành là đối tác kinh tế quan trọng đối với các nước đồng minh của Mỹ.
Ở khu vực Trung Đông, 39% các công ty ở UAE được HSBC khảo sát đã cũng gọi Trung Quốc là “thị trường ưu tiên”. Bức tranh tương tự cũng thể hiện ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương khi 91% các công ty Malaysia khẳng định “không thể tồn tại mà không có thị trường Trung Quốc”.
Ngay cả ở Australia ở châu Đại Dương, một quốc gia có truyền thống ủng hộ Hoa Kỳ về nhiều vấn đề chính sách đối ngoại, cũng có tới 84% các công ty cho rằng thị trường Trung Quốc là nguồn lợi ích chính đưa đến sự thịnh vượng cho doanh nghiệp của họ.
Thực tế là nước này phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc về mặt kinh tế. 36% tổng xuất khẩu của Australia đến thị trường Trung Quốc, theo chiều ngược lại, Canberra cũng nhập khẩu hầu hết hàng hóa của Bắc Kinh. Ngoài ra, có một thỏa thuận thương mại tự do giữa hai nước.
Hiện nay, Australia đã buộc phải thực hiện một chính sách ngoại giao linh hoạt giữa một đồng minh chính trị và một đối tác kinh tế lớn.
Một mặt, Canberra loại bỏ các công ty Trung Quốc, ví dụ như công ty công nghệ điện tử viễn thông Huawei, trong dự án mạng 5G trong nước, bằng cách đó thể hiện sự trung thành với lập trường của Washington; mặt khác, Australia lại rất hào hứng với đầu tư của Trung Quốc.
Và một tình huống tương tự cũng diễn ra ở nhiều nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Theo số liệu của Bộ Thương mại Trung Quốc, tổng vốn đầu tư song phương giữa Trung Quốc và ASEAN trong năm 2017 lên đến 185 tỷ USD. Khối lượng thương mại song phương vào năm 2020 sẽ tăng lên 1 nghìn tỷ USD. Hiệp định thương mại tự do Trung Quốc – ASEAN có hiệu lực trong 8 năm nay, đã đóng góp tích cực vào việc này.
Mất lợi, thương giới Mỹ sẽ chống lệnh Tổng thống?
Việc Mỹ và các đồng minh của mình “không thể sống thiếu Trung Quốc” là điều chẳng làm ai ngạc nhiên.
Sau hơn 40 năm cải cách thị trường, nền kinh tế Trung Quốc đã tăng gấp 225 lần, số người sống dưới mức nghèo khổ đã giảm 500 triệu người, tức là gấp rưỡi tổng dân số của Hoa Kỳ. Tầng lớp trung lưu Trung Quốc cũng đang nhanh chóng hình thành và cùng với nó là xã hội tiêu dùng.
Và đương nhiên là một thị trường năng động và đồ sộ như vậy rất hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, bao gồm cả những doanh nghiệp nước ngoài, mà Mỹ cũng không phải là ngoại lệ.
Nhưng trong trường hợp lợi ích của nhà nước và giới kinh doanh Mỹ có xung đột thì mọi chuyện sẽ giải quyết ra sao? Liệu có thể mong đợi một sự thay đổi chính sách từ chính quyền Washington hay không? Câu hỏi này đã được các chuyên gia chính trị và kinh tế Trung Quốc đưa ra lời giải đáp.
Nếu mất đi quyền lợi lớn, giới kinh doanh Mỹ sẽ gây sức ép mạnh với Tổng thống Donald Trump |
Ông Zhou Rong, nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Nghiên cứu Tài chính Chongyang thuộc Đại học Nhân dân Trung Quốc cho rằng, hiện tại và trong tương lai các công ty Mỹ sẽ không thể bỏ qua thị trường Trung Quốc, nhưng trong thời điểm hiện nay không có cơ sở nào để nói đến những thay đổi trong chính sách của Washington đối với Bắc Kinh, bởi nó sẽ không diễn ra trong thời gian ngắn tới.
Chính sách không thân thiện đối với Trung Quốc, được vận động không chỉ bởi Đảng Cộng hòa, mà những người thuộc đảng Dân chủ cũng xác định mục tiêu chính của họ là kiềm chế sự phát triển của Trung Quốc. Vì có một sự đồng thuận trong giới tinh hoa chính trị Mỹ về vấn đề này, không có lý do gì để mong đợi một sự thay đổi nhanh chóng trong chính sách của Trump.
Cho đến nay, các biện pháp hạn chế mà Trump đã áp đặt với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vẫn không ảnh hưởng nhiều đến các công ty Mỹ đang làm ăn với Trung Quốc và mâu thuẫn giữa chính giới và thương giới vẫn chưa đạt đến đỉnh điểm nóng.
Nhưng trong tương lai, các công ty sẽ càng cảm thấy thiệt hại lớn hơn, mức độ bất mãn trong cộng đồng doanh nghiệp Mỹ sẽ càng lớn.
Khi điều này xảy ra và các công ty sẽ hiểu được ai thực sự là nguyên nhân chính gây thiệt hại cho họ, thì khi đó mới có thể mong đợi việc giảm nhẹ chính sách thù địch của Mỹ đối với Trung Quốc.
Khi thái độ không hài lòng của giới doanh nghiệp đạt đến một giới hạn không thể chịu đựng được, thì Washington dù muốn hay không muốn có lẽ sẽ phải nhượng bộ – vị chuyên gia Trung Quốc tin tưởng rằng, ông Trump sẽ buộc phải làm điều này, vì sức ép từ chính các doanh nghiệp Mỹ.