Tuesday, November 26, 2024
Trang chủBiển nóngGiải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông:...

Giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông: Từ khía cạnh luật quốc tế và thực tiễn

Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Bên cạnh việc ghi nhận nguyên tắc giải quyết tranh chấp hòa bình, Hiến chương Liên hợp quốc cũng đã xây dựng hệ thống các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế.

Theo Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc, cácbiện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế có thể chia làm hai nhóm cơ bản: (1) Các biện pháp mang tính chất ngoại giao, gồm đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, sử dụng những tổ chức hoặc những hiệp định khu vực; (2) Các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng tài phán quốc tế, thông qua các Tòa án quốc tế và Trọng tài quốc tế.

Các biện pháp mang tính chất ngoại giao:

Những biện pháp ngoại giao dùng để giải quyết tranh chấp quốc tế đã xuất hiện từ rất sớm và luôn đóng vai trò quan trọng. Kết quả của việc sử dụng các biện pháp ngoại giao thường là các nghị quyết, khuyến cáo của các tổ chức quốc tế hoặc cam kết và các điều ước quốc tế được các bên tranh chấp ký kết.

Biện pháp đàm phán (thương lượng): Trong các biện pháp giải quyết tranh chấp, đàm phán được đánh giá là dễ sử dụng, áp dụng phổ biến và hiệu quá nhất, có lịch sử lâu đời dựa trên cơ sở trực tiếp nêu ra các quan điểm và tiếp nhận các ý kiến, lập trường của các bên đối thoại và không có sự can dự của bên thứ ba. So với các biện pháp giải quyết tranh chấp khác, đàm phán có rất nhiều ưu điểm: linh hoạt, chủ động không bị khống chế về mặt thời gian, địa điểm; hạn chế được sự can thiệp trực tiếp từ bên thứ 3 (thậm chí cả cộng đồng quốc tế), không làm phức tạp thêm nội dung tranh chấp; tiết kiệm về kinh phí, thời gian của các bên tranh chấp.

Những cuộc đàm phán thường xuyên về vịnh Bắc Bộ trong hai năm 1999, 2000 đưa đến kết quả là Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, và thềm lục địa ở bịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000 giữa Việt Nam và Trung Quốc giải quyết vấn đề tranh chấp vịnh Bắc Bộ, một vấn đề tồn tại do lịch sử để lại trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

Tuy nhiên, đàm phán không phải lúc nào cũng thành công mà nó còn phụ thuộc vào mức độ thiện chí, sự mềm dẻo, linh hoạt và sự nhạy cảm của các bên đàm phán. Thái độ thù địch và sự bất đồng về chính trị là những nguyên nhân làm quá trình này phức tạp hay nghiêm trọng hơn là không đạt được bất kỳ một sự thỏa thuận nào.

Trong một số trường hợp, đàm phán là nghĩa vụ bắt buộc cảu các bên tranh chấp quy định trong các điều ước quốc tế song phương hay đa phương. Ngoài ra, các phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế cũng có thể trực tiếp yêu cầu các bên tham gia vào đàm phán với sự thiện chí cũng như đòi hỏi các bên phải đạt được một thỏa thuận nhất định.

Biện pháp hòa giải bởi một bên trung gian: Trung gian hòa giải là biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế mang sính ngoại giao có sự tham gia của bên thứ 3 với sự chấp nhận của các bên tranh chấp, đã được quy định trong các Công ước La Hay 1899 và 1907. Nhiệm vụ của bên trung gian là khuyến khích, động viên các quốc gia có liên quan quan đến tranh chấp giải quyết vụ tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, cụ thể là việc tác động để các bên tiếp xúc ngoại giao và tiến hành các cuộc đàm phán chính thức. Bên trung gian có thể một hoặc một số quốc gia, một hoặc một số cá nhân có uy tín và cũng có thể là thông qua cơ quan của tổ chức quốc tế. Cùng với sự phát triển của luật quốc tế, biện pháp này ngày càng được sử dụng phổ biến, đặc biệt từ thập niên 90 của thế kỷ XX. Số vụ tranh chấp có sử dụng hòa giải trong thời kỳ này tăng 469% so với giai đoạn trước đó.

Các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng tài phán quốc tế

Đây là việc sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế trên cơ sở sự thỏa thuận hoặc thừa nhận của các bên tranh chấp bằng các phương pháp, thủ tục tư pháp. Căn cứ vào sự hình thành, cơ cấu tổ chức, hoạt động, phương thức giải quyết tranh chấp, giá trị hiệu lực của phán quyết cũng như cơ chế đảm bảo thi hành phán quyết để chia cơ quan tài phán quốc tế thành hai loại là Tòa án quốc tế và Trọng tài quốc tế.

Tòa trọng tài thường trực (Permanent Court of Arbitration – PCA): Chính thức thành lập năm 1900 và đi vào hoạt động năm 1902, có trụ ở La Hay (The Hague), Hà Lan. Hiện nay PCA giải quyết các tranh chấp giữa các chủ thể quốc tế, bao gồm: Tranh chấp giữa hai hay nhiều quốc gia; Tranh chấp giữa một quốc gia với một tổ chức quốc tế; Tranh chấp giữa hai hay nhiều tổ chức quốc tế; Tranh chấp giữa một quốc gia với thể nhân; Tranh chấp giữa một tổ chức quốc tế với một thể nhân.

Thẩm quyền của PCA: Nguyên tắc cơ bản cho việc trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho Hội đồng trọng tài (sau đây gọi là Tòa Trọng tài) được thành lập theo quy chế thích hợp cho từng vụ kiện do các bên liên quan thỏa thuận gửi lên PCA, hay còn gọi là thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận này có thể tồn tại dưới dạng tuyên bố riêng biệt của mỗi bên, hoặc có thể là một điều khoản được quy định trong một điều ước quốc tế, hoặc dưới dạng các cam kết pháp lý khác, trong đó nêu rằng, mọi tranh chấp nảy sinh giữa các bên sẽ được giải quyết tại PCA.

PCA sẽ trao quyền phán xử cho một Hội đồng trọng tài với các tranh chấp nằm trong thẩm quyền giải quyết của PCA. Để xác định rõ thẩm quyền của PCA đối với các tranh chấp, thỏa thuận trọng tài được tách biệt ra khỏi các tuyên bố pháp lý mà nó chứa đựng thỏa thuận trọng tài trong đó. Việc chọn lựa luật áp dựng cho phán quyết trọng tài sẽ do các bên tự thỏa thuận lựa chọn. Trong trường hợp không có thỏa thuận lựa chọn, Hội đồng trọng tài sẽ quyết định lựa chọn luật áp dụng trên nguyên tắc chung của luật quốc tế.

Hiện PCA đang là nơi đăng ký của 5 thiết chế trọng tài xét xử các tranh chấp giữa các quốc gia với nhau, 55 thiết chế trọng tài xét xử về các tranh chấp giữa các nhà đầu tư với các quốc gia, 34 thiết chế trọng tài xét xử về các thỏa thuận, hợp đồng giữa các quốc gia, chính quyền đang đại diện cho một thực thể lãnh thổ nào đó, và các tổ chức quốc tế.

Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice – ICJ): Thành lập năm 1945 trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc, thay thế Tòa án Thường trực Công lý Quốc tế (PCIJ) của Hội Quốc liên.

Theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, ICJ là cơ quan tư pháp chính của tổ chức này và có vai trò thực hiện các mục tiêu của Liên hợp quốc nhằm “điều chỉnh hoặc giải quyết các vụ tranh chấp có tính chất quốc tế có thể dẫn đến sự phá hoại hòa bình, bằng các biện pháp phù hợp với nguyên tắc công bằng và luật pháp quốc tế”. ICJ hoạt động dựa trên Hiến chương Liên hợp quốc và Quy chế Tòa án Công lý Quốc tế.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa được xác lập theo ba phương thức: (1) Chấp nhận thẩm quyền của Tòa theo từng vụ việc. Trong mọi trường hợp, các quốc gia tranh chấp sẽ ký một hiệp ước, được gọi là thỉnh cầu, đề nghị Tòa xem xét phân giải tranh chấp. Trong thỏa thuận này, các quốc gia nêu rõ đối tượng tranh chấp, các câu hỏi cần giải quyết, phạm vi thẩm quyền của Tòa, phạm vi luật áp dụng và thực hiện bằng đường ngoại giao. (2) Xác lập trước thẩm quyền của Tòa trong nội dung của các Điều ước quốc tế (đến nay đã có hơn 400 Điều ước có điều khoản mang nội dung này). (3) Quốc gia sẽ tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa. Nếu hai quốc gia tranh chấp đều có tuyên bố đơn phương và các tuyên bố này có cùng phạm vi hiệu lực đối với tranh chấp cụ thể thì Tòa có thẩm quyền xét xử tranh chấp đó.

Phán quyết của ICJ có giá trị chung thẩm và bắt buộc thực hiện đối với các bên tranh chấp, không thể bị kháng cáo, nhưng nếu có tranh cãi về ý nghĩa hoặc phạm vi quyết nghị thì Tòa phải giải thích vấn đề đó theo yêu cầu của bất kỳ bên nào. Việc bảo đảm thực thi phán quyết của ICJ cao hơn các biện pháp giải quyết tranh chấp khác, vì nếu một bên tranh chấp không tuân thủ thì bên kia có quyền yêu cầu Hội đồng Bảo an can thiệp.

Thực tiễn cho thấy, đa số các tranh chấp được giải quyết tại ICJ sau 1945 là các tranh chấp nhạy cảm nhất về mặt chính trị trong quan hệ quốc tế; đó là các tranh chấp về biên giới, chủ quyền lãnh thổ hoặc phân định biển và tranh chấp liên quan đến nguyên tắc cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Thông qua việc giải quyết tranh chấp về biển và đại dương, ICJ đã có nhiều đóng góp vào việc phát triển tiến bộ luật biển quốc tế như khái niệm thềm lục địa, nguyên tắc công bằng trong phân định ranh giới biển.

Toàn án Quốc tế về Luật Biển (International Tribunal for the Law of the Sea – ITLOS): Là một co chế giải quyết tranh chấp được thành lập ngay sau khi Công ước LHQ về Luật Biển 1982 có hiệu lực vào tháng 12/1982, nhằm giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước.

ITLOS có hai thẩm quyền chính: (1) Thẩm quyền đối với tất cả các yêu cầu được đưa ra Tòa về việc giải thích, áp dụng Công ước của các nước thành viên; (2) Thẩm quyền đưa ra ý kiến tư vấn đối với các câu hỏi pháp lý khi được Đại hội đồng hay Cơ quan quyền lực đáy Đại Tây Dương yêu cầu, hoặc bằng một thỏa thuận quốc tế.

Ngoài ra, trừ khi các Bên tham gia có thỏa thuận khác, Tòa có thẩm quyết bắt buộc đối với việc giải phóng ngay tàu thuyền bị giam giữ theo Điều 292 và ban hành biện pháp tạm thời theo Điều 290, khoản 5 của UNCLOS. Đặc biệt, Viện giải quyết tranh chấp về đáy đại dương có thẩm quyền gần như tuyệt đối trong việc giải quyết các tranh chấp tịa vùng đáy biển quốc tế. Từ khi thành lập đến nay, ITLOS đã thụ lý 22 vụ và đã giải quyết xong 19 vụ.

Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS: Là một trong bốn cơ chế giải quyết tranh chấp và là một trong hai hình thức trọng tài được quy định tại UNCLOS.

Tòa có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp giữa các thành viên của UNCLOS liên quan đến áp dụng và giải thích Công ước, là cơ chế giải quyết tranh chấp có tính chất bắt buộc đối với các thành viên Công ước. Theo quy định này, khi phát sinh tranh chấp liên quan đến áp dụng và giải thích Công ước mà các bên không lựa chọn cùng một cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 287 thì một bên tranh chấp có thể đưa vụ việc ra Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII và trong trường hợp này Tòa có thẩm quyền đương nhiên mà không cần sự đồng ý của bên kia.

Phán quyết của Tòa có giá trị chung thẩm và có tính ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Tính đến nay đã có 12 vụ việc được đệ trình lên Tòa. Trong đó điển hình là vụ Philippines (2013) chính thức kiện Trung Quốc và Tòa Trọng tài (12/7/2016) đã ra phán quyết lịch sử về vụ kiện.

Tòa Trọng tài đặc biệt theo Phụ lục VIII: Phụ lục VIII của UNCLOS quy định Tòa Trọng tài đặc biệt có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước Luật Biển 1982 trong các lĩnh vực sau: (1) Đánh bắt hải sản; (2) Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; (3) Nghiên cứu khoa học biển; (4) Hàng hải, kể cả vấn đề gây ô nhiễm biển của tàu thuyền hay do đổ các chất thải, rác độc hại ở biển.

Về cơ bản, thủ tục ra quyết định, hiệu lực của Tòa trọng tài đặc biệt sẽ được áp dụng thủ tục của Tòa Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII, tuy nhiên có áp dụng một số thay đổi cần thiết về chi tiết. Ngoài ra, Tòa Trọng tài đặc biệt có thêm thủ tục điều tra và xác định nguyên nhân dẫn đến tranh chấp và chức năng đưa ra các khuyến nghị không mang tính chất ràng buộc làm cơ sở cho các bên xem xét về nguyên nhân làm nảy sinh tranh chấp.

Việt Nam đã thông qua các biện pháp ngoại giao để tiến hành phân định vùng biển chồng lấn với các nước ở Biển Đông

Phân định biển giữa Việt Nam và Trung Quốc: Từ năm 1982 đến năm 2015, Việt Nam đã giải quyết được 2 trong 3 vấn đề biên giới với Trung Quốc đó là: hoàn thành việc cắm mốc biên giới trên bộ, phân định vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở vịnh Bắc Bộ và hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ, chỉ còn lại vấn đề đàm phán phân định biển khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ là chưa giải quyết xong. Sau quá trình đàm phán kéo dài 27 năm từ năm 1974 đến năm 2000, Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ đã được nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ký kết. Việc ký kết hai Hiệp định là sự kiện quan trọng đối với Việt Nam cũng như quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc, tạo thuận lợi cho việc quản lý và duy trì sự ổn định trong vịnh Bắc Bộ. Từ năm 2001 đến năm 2004, hai bên đã tiến hành đàm phán Nghị định thư bổ sung Hiệp định hợp tác nghề cá để xác định ranh giới các vùng biển, số lượng tàu thuyền và chế độ pháp lý của các vùng đánh cá chung và vùng dàn xếp quá độ.

Quá trình phân định biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ngoài cửa vịnh Bắc Bộ vẫn còn tiếp tục đàm phán và vấn đề này vẫn còn gặp nhiều khó khăn, do quan điểm của hai nước có nhiều sự khác biệt, đặc biệt là quan điểm về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ tiếp tục kiên trì đàm phán với Trung Quốc và yêu cầu Trung Quốc cũng phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế, đặc biệt là những quy định của UNCLOS để giải quyết vấn đề phân định biển.

Phân định biển giữa Việt Nam và Philippines: Về bản chất, Philippines không hề có chủ quyền đối với các đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Vì Hiệp định Paris ký năm 1898 giữa Mỹ và Tây Ban Nha, đã quy định Tây Ban Nha bàn giao Philippines cho Mỹ quản lý. Hiệp định xác định phạm vi lãnh thổ quần đảo Philippines trên bản đồ kèm theo thì lãnh thổ của Philippines không bao gồm một đảo nào nằm trong quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, trong lúc Việt Nam đang tập trung nhiệm vụ giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, lợi dụng tình hình đó từ năm 1971 đến năm 1973 Philippines đã đưa quân chiếm trái phép năm đảo ở phía Bắc và phía Đông Bắc của quần đảo Trường Sa là: Vĩnh Viễn, Bình Nguyên, Loại Ta, Thị Tứ và Song Tử Đông. Cho đến tháng 02/1979, Philippines đã chính thức đưa ra yêu sách chủ quyền đối với số đảo nêu trên nằm trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, mà Philippines gọi là nhóm đảo Kalayaan.

Từ năm 1995 đến năm 2015, Việt Nam và Philippines đã thể hiện được quan điểm hòa bình giải quyết các bất đồng về chủ quyền trên biển liên quan đến hai nước. Hai nước đã có những thỏa thuận ở các cấp Bộ trưởng Ngoại giao, cấp Thủ tướng Chính phủ, cấp Tổng thống và Chủ tịch nước. Những thỏa thuận đó, đã góp phần giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa hai nước bằng biện pháp hòa bình, trên tinh thần hữu nghị, tin cậy lẫn nhau. Đây là cơ sở thuận lợi cho vấn đề phân định biên giới trên biển giữa hai nước trong các giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, do quan điểm chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam giữa hai nước có sự khác biệt, cho nên quá trình đàm phán phân định biển giữa Việt Nam và Philippines vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Song, hai bên vẫn cam kết giải quyết những bất đồng mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, thông qua đàm phán, dựa trên những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế, nhất là những quy định của UNCLOS.

Phân định biển giữa giữa Việt Nam và Malaysia: Trên thực tế cho thấy vùng biển giáp ranh giữa Việt Nam và Malaysia tồn tại một vùng biển chồng lấn trên thềm lục địa của hai nước rộng khoảng 2.800 km2. Khu vực này nằm ở cửa vịnh Thái Lan có độ sâu nhỏ, trung bình khoảng 50 m, địa hình đáy biển tương đối bằng phẳng. Việt Nam và Malaysia đều chấp nhận áp dụng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và những quy định của UNCLOS để giải quyết phân định biển. Sau một thời gian dài đàm phán, ngày 06/5/2009, Việt Nam và Malaysia đã phối hợp trình Báo cáo chung về khu vực thềm lục địa kéo dài liên quan đến hai nước lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc. Sự kiện này đã thể hiện tinh thần hòa bình giải quyết quan điểm những bất đồng mâu thuẫn về vùng biển chồng lấn giữa hai nước và còn được xem là một mẫu mực trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa các nước láng giềng trong khu vực Biển Đông.

Phân định biển giữa Việt Nam và Indonesia: Do quan điểm sử dụng nguyên tắc phân định biển và điểm cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải khác nhau, nên giữa Indonesia và Việt Nam có một vùng biển chồng lấn rộng lớn. Từ năm 1978 đến năm 2003, Việt Nam và Indonesia đã tiến hành đàm phán cấp chuyên viên để phân định thềm lục địa trong vùng biển giáp ranh giữa hai nước. Ngày 28/3/2016, Việt Nam và Indonesia đã tổ chức đàm phán vòng 8 cấp chuyên viên về phân định vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước.

Tuy vậy, đàm phán về ranh giới biển giữa hai nước vẫn chưa kết thúc, bởi vì vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn giữa hai nước vẫn chưa dược phân định. Từ khi hai nước ký kết Hiệp định phân định thềm lục địa, có nhiều dấu hiệu tích cực như ngư dân của hai nước đã có một hành lang pháp lý rõ ràng, do đó trong quá trình khai thác hải sản trên vùng biển giáp ranh ít xảy ra vi phạm. Đồng thời hai bên cũng tiếp tục đàm phán để phân định vùng đặc quyền kinh tế dựa trên luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế và quy định của UNCLOS.

Phân định biển giữa Việt Nam và Thái Lan: Trong giai đoạn 1986 – 1997, hai nước đã tiến hành đàm phán phân định biên giới trên biển. Trong vịnh Thái Lan, Thái Lan và Việt Nam là hai nước có bờ biển đối diện nhau, cùng có quyền mở rộng vùng biển của mình theo quy định của UNCLOS, do đó đã tạo ra một vùng chồng lấn rộng khoảng 6.074 km2.

Từ năm 1997 – 2015, Việt Nam và Thái Lan đã triển khai kế hoạch tổ chức tuần tra chung trên biển. Hai nước đã thiết lập kênh liên lạc cảnh báo vi phạm đồng thời triển khai hợp tác tổ chức điều tra nguồn lợi biển giữa hai nước, bắt đầu từ năm 2002, hai nước đã thực hiện tuần tra chung trên biển. Bên cạnh đó, hai nước đã thành lập Ủy ban hỗn hợp Việt Nam – Thái Lan về thiết lập trật tự trên biển, Ủy ban này đã họp nhiều vòng và có những đóng góp nhất định trong việc giữ gìn môi trường hòa bình trên biển. Đồng thời hai bên đã thỏa thuận phối hợp trong việc giáo dục ngư dân của hai nước không được xâm phạm vùng biển của nhau để đánh bắt hải sản trái phép.

Phân định biển giữa Việt Nam và Campuchia: Ngày 07/7/1982, Việt Nam và Campuchia đã ký Hiệp định về Vùng nước lịch sử giữa hai nước. Hiệp định quy định lấy khu vực vùng nước lịch sử năm giữa vùng biển hai nước và sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp để hoạch định đường biên giới giữa hai nước. Hiệp định cũng quy định hai nước đồng ý tạo ra một Vùng nước lịch sử chung căn cứ vào điều kiện lịch sử, địa lý, kinh tế và quốc phòng của môi nước. Vùng nước lịch sử chung được giới hạn bởi các bờ biển Hà Tiên của Việt Nam và Kampot của Campuchia, đảo Phú Quốc và các đảo khác ở ngoài khơi. Vùng nước lịch sử chung được hai bên coi như đặt dưới chế độ nội thủy và được quản lý chung về đánh cá, hai bên tiến hành tuần tra và kiểm soát trong khi chờ đợi việc giải quyết đường biên giới trên biển trong vùng nước lịch sử.

Philippines đã thông qua các biện pháp tài phán quốc tế để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông

Philippines (22/1/2013) chính thức “Tuyên bố và Thông báo khởi kiện” Trung Quốc theo cơ chế Trọng tài Phụ lục VII của UNCLOS. Nội dung Philippines khởi kiện Trung Quốc xoay quanh một số vấn đề sau: (1) Philippines yêu cầu Tòa Trọng tài tuyên bố yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc ở Biển Đông là bất hợp pháp. (2) Philippines yêu cầu Tòa Trọng tài làm rõ quy chế pháp lý của một số thực thể ở Biển Đông . Theo Philippines, bãi Vành Khăn (Mischief Reef), Cỏ Mây (Second Thomas Shoal), Xu Bi (Subi Reef), Ga Ven (Gaven Reef) và Ken Nan (McKennan Reef) (bao gồm cả Tư Nghĩa (Hughes Reef)) là các bãi nửa nổi nửa chìm, nghĩa là nổi khi thủy triều xuống thấp và chìm khi thủy triều lên cao. Trong các bãi nửa nổi nửa chìm trên, Philippines đặc biệt yêu cầu Tòa Trọng tài xác định bãi Vành Khăn và Cỏ Mây thuộc EEZ và thềm lục địa của Philippines. Ngoài các bãi nửa nổi nửa chìm, Philippines còn yêu cầu Toà Trọng tài kết luận bãi cạn Scarborough (Scarborough Shoal), Gạc Ma (Johnson Reef), Châu Viên (Cuarteron Reef) và Chữ Thập (Fiery Cross Reef) chỉ là đá vì “không có khả năng cho con người cư trú và không có đời sống kinh tế riêng”. (3) Philippines yêu cầu Tòa Trọng tài tuyên bố Trung Quốc đã can thiệp bất hợp pháp vào việc thụ hưởng và thực thi các quyền chủ quyền của Philippines đối với nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong vùng EEZ và thềm lục địa Philippines. Trung Quốc đã vi phạm luật quốc tế khi không ngăn chặn được công dân và tàu bè nước này khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng EEZ của Philippines. Việc Trung Quốc can thiệp vào hoạt động đánh bắt truyền thống của ngư dân Philippines tại Scarborough, cản trở ngư dân Philippines tìm kiếm sinh kế là bất hợp pháp. Trung Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ được quy định trong UNCLOS về bảo vệ và bảo tồn môi trường biển tại Scarborough và Cỏ Mây. Việc Trung Quốc chiếm đóng và xây dựng tại Vành Khăn đã vi phạm các quy định của UNCLOS về các đảo nhân tạo, công trình và cấu trúc trên biển; vi phạm nghĩa vụ bảo vệ và bảo tồn môi trường biển mà UNCLOS quy định; lLà các hành vi bất hợp pháp nhằm tìm cách chiếm hữu các thực thể này, vi phạm UNCLOS. Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ được quy định trong UNCLOS khi triển khai lực lượng tàu chấp pháp theo cách thức nguy hiểm, gây nguy cơ đâm va nghiêm trọng cho các tàu Philippines di chuyển quanh Scarborough.

Trong Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016, Tòa trọng tài cho rằng: (1) Không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong “đường 9 đoạn”. (2) Không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng; các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất; một số vùng biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines vì không bị chồng lấn với bất cứ quyền hưởng vùng biển nào mà Trung Quốc có thể có. (3) Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này bằng việc can thiệp vào hoạt động đánh cá và thăm dò dầu khí của Philippines; xây dựng đảo nhân tạo; không ngăn chặn ngư dân Trung Quốc đánh bắt ở khu vực này. Toà cũng khẳng định rằng ngư dân từ Philippines (cũng như ngư dân từ Trung Quốc) đã có quyền đánh cá truyền thống ở Bãi Scarborough và rằng Trung Quốc đã ngăn chặn các quyền này bằng cách hạn chế việc tiếp cận khu vực này. Toà cũng khẳng định rằng các tàu chấp pháp của Trung Quốc gây ra một rủi ro va chạm nghiêm trọng một cách bất hợp pháp khi họ đã trực tiếp cản trở các tàu của Philippines. (4) Việc bồi đắp và xây dựng đảo nhân tạo trên quy mô lớn của Trung Quốc gần đây là không phù hợp với nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước trong quá trình giải quyết tranh chấp, trong chừng mực mà Trung Quốc đã gây ra những tác hại không thể sửa chữa được với môi trường biển, xây dựng một đảo nhân tạo lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và phá huỷ các bằng chứng về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc ở Biển Đông mà là một phần của tranh chấp giữa các bên..

RELATED ARTICLES

Tin mới