Thursday, November 28, 2024
Trang chủBiển nóngVai trò của Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước...

Vai trò của Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS)

          Sau Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (gọi tắt là UNCLOS 1982) được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, được nhiều quốc gia ký kết và tham gia. Hai năm một lần, Liên hợp quốc đều tổ chức Hội nghị các quốc gia thành viên UNCLOS 1982 để tổng kết đánh giá quá trình thực hiện, triển khai công ước của các nước thành viên. Đây là cơ chế đa phương quan trọng đảm bảo duy trì sự tham gia tích cực và trách nhiệm của các nước đối với UNCLOS 1982.

Hội nghị lần thứ 28 các quốc gia thành viên UNCLOS 1982. Nguồn: LHQ

          Sau Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (gọi tắt là UNCLOS 1982) được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, được nhiều quốc gia ký kết và tham gia. UNCLOS 1982 chính thức có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Đây là một văn kiện pháp lý đa phương đồ sộ, bao gồm 320 điều khoản và 9 phụ lục, với hơn 1.000 quy phạm pháp luật, UNCLOS 1982 đã đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một trật tự pháp lý quốc tế mới đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. UNCLOS 1982 thực sự là một bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế bởi nó không chỉ bao gồm các điều khoản mang tính điều ước mà còn là văn bản pháp điển hoá các quy định mang tính tập quán. UNCLOS 1982 thể hiện sự thoả hiệp mang tính toàn cầu, có tính đến lợi ích của tất cả các nước trên thế giới, dù là nước công nghiệp phát triển hay là nước đang phát triển… UNCLOS 1982 không chấp nhận bảo lưu mà đòi hỏi các quốc gia phê chuẩn hoặc tham gia phải có trách nhiệm thực hiện toàn bộ các điều khoản của Công ước. Hai năm một lần, Liên hợp quốc đều tổ chức Hội nghị các quốc gia thành viên UNCLOS 1982 để tổng kết đánh giá quá trình thực hiện, triển khai công ước của các nước thành viên. Đây là cơ chế đa phương quan trọng đảm bảo duy trì sự tham gia tích cực và trách nhiệm của các nước đối với UNCLOS 1982.

          Tại Hội nghị lần thứ 28 các quốc gia thành viên UNCLOS 1982

          Hội nghị lần thứ 28 các quốc gia thành viên UNCLOS 1982 diễn ra tại trụ sở Liên hợp quốc ở New York (Mỹ) từ ngày 11 – 14/6/2018, với sự tham gia của đại diện hơn 100 quốc gia thành viên UNCLOS 1982, đại diện các cơ quan được thành lập theo Công ước, gồm Tòa án quốc tế về Luật Biển (ITLOS), Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương (ISA) và Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc (CLCS), cùng đại diện một số tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực biển và đại dương. Phát biểu tại Hội nghị, nhiều nước đã chia sẻ các thách thức mà quản trị đại dương và biển trên thế giới cũng như tại từng nước đang phải đối mặt như: ô nhiễm biển, cạn kiệt tài nguyên, khai thác thủy sản quá mức và bất hợp pháp, biến đổi khí hậu, mực nước biển tăng, suy giảm đa dạng sinh học ở nhiều vùng biển và nhiều thay đổi trong các quá trình sinh hóa ở các tầng biển sâu… Cùng với các tranh chấp biển còn tồn tại ở nhiều nơi, các nhân tố trên tác động lớn đến bảo tồn và sử dụng bền vững biển. Các nước nhấn mạnh phải đẩy mạnh thực hiện các tiêu chí và cam kết trong khuôn khổ mục tiêu phát triển bền vững về bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và các nguồn tài nguyên biển, trong đó UNCLOS 1982 tiếp tục là khuôn khổ pháp lý toàn diện điều chỉnh mọi hoạt động của các quốc gia ven biển. Đại sứ Nguyễn Phương Nga, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc đã phát biểu, nêu rõ: “Là một quốc gia ven Biển Đông, Việt Nam đặc biệt chú trọng bảo vệ môi trường và hệ sinh thái biển, đồng thời nhận thức rõ tác động tiêu cực của các tranh chấp biển đảo đến bảo tồn và sử dụng biển bền vững. Việt Nam luôn chủ trương giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS. Việt Nam hoan nghênh nỗ lực chung của các quốc gia liên quan nhằm xây dựng Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, ổn định và phát triển bền vững, trong đó có việc khởi động đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Việt Nam kêu gọi các tất cả các quốc gia thành viên tuân thủ đầy đủ các quy định của Công ước, tôn trọng các tiến trình ngoại giao và pháp lý, thúc đẩy sử dụng biển và đại dương một cách bền vững, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không tại các vùng biển, tránh các hoạt động đơn phương, trong đó có hoạt động quân sự hóa các cấu trúc đang chiếm đóng, đi ngược lại với mục tiêu của UNCLOS 1982, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và tài nguyên biển, cũng như quyền lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia theo UNCLOS 1982 và tiến trình xây dựng các quy tắc ứng xử”. Đại sứ Nguyễn Phương Nga cũng khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam ủng hộ chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (khai thác IUU), thông tin về các nỗ lực của Việt Nam đấu tranh phòng chống khai thác IUU và khẩn trương tiến hành các thủ tục nội bộ để trở thành thành viên Hiệp định về bảo tồn và quản lý các đàn cá lưỡng cư và di cư xa (UNFSA), Hiệp định về các biện pháp của các quốc gia có cảng nhằm ngăn chặn, chống lại và xóa bỏ khai thác IUU (PSMA), đồng thời nhấn mạnh công tác phòng chống khai thác IUU cần tính đến hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia, nhất là ở những nước mà việc khai thác thủy sản chủ yếu ở quy mô nhỏ và cần bảo đảm cân bằng giữa mục tiêu bảo tồn và phát triển nghề cá bền vững và mục tiêu an sinh xã hội, sinh kế cho cộng đồng dân cư ở các vùng duyên hải. Đại sứ Nguyễn Phương Nga nhấn mạnh Việt Nam cam kết tôn trọng và thực thi đầy đủ các quy định của Công ước, hợp tác với các quốc gia, tổ chức quốc tế bảo tồn và phát triển bền vững biển và đại dương vì tương lai chung của nhân loại.

          Tại Hội nghị lần thứ 27 các quốc gia thành viên UNCLOS 1982

          Hội nghị lần thứ 27 các quốc gia thành viên UNCLOS 1982 diễn ra tại New York (Mỹ) từ ngày 12-16/6/2016, với sự tham dự của 160 quốc gia thành viên, đại diện các cơ quan được thành lập theo Công ước và một số tổ chức quốc tế. Hội nghị khẳng định UNCLOS 1982 là khung pháp lý quốc tế toàn diện, điều chỉnh các hoạt động và vấn đề liên quan đến biển và đại dương. Các đại biểu đề xuất nhiều giải pháp xử lý các vấn đề nảy sinh trong việc quản lý, bảo tồn và sử dụng bền vững biển và đại dương; nhấn mạnh sự cần thiết phải sớm hoàn thành quy định về thăm dò, khai thác vùng đáy đại dương và văn kiện pháp lý điều chỉnh vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học tại vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia. Phát biểu tại Hội nghị, Đại sứ Nguyễn Phương Nga, Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc khẳng định, việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không tại Biển Đông có ý nghĩa quan trọng đối với các nước trong khu vực cũng như cộng đồng quốc tế. Đại sứ nhấn mạnh Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước trong khu vực trong việc thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và xây dựng COC. Việt Nam kêu gọi các bên liên quan không có hành động làm phức tạp thêm tình hình; tôn trọng các tiến trình ngoại giao và pháp lý, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.

          Các nước nhấn mạnh một số nội dung quan trọng của UNCLOS

          Những nội dung của UNCLOS 1982 đang được các nước tôn trọng, áp dụng là: (1) Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền đầy đủ đối với vùng lãnh hải mà họ có quyền thiết lập với chiều rộng không quá 12 hải lý. Tuy vậy, chủ quyền  này không phải là tuyệt đối vì tầu thuyền nước ngoài được phép “đi qua vô hại” trong vùng lãnh hải. Tầu thuyền và máy bay được phép “đi quá cảnh” qua các dải hẹp, eo biển được sử dụng cho hàng hải quốc tế. (2) Ranh giới lãnh hải, vùng Đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác định dựa trên các quy tắc áp dụng cho lãnh thổ đất liền, nhưng đối với đá không thể có con người sinh sống hoặc không có đời sống kinh tế sẽ không có vùng Đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa. Quốc gia có biên giới với eo biển có thể điều tiết lưu thông hàng hải và các khía cạnh khác liên quan đến đi lại, lưu thông. (3) Quốc gia quần đảo, được tạo thành bởi nhóm hoặc các nhóm đảo liên quan gần gũi và những vùng nước tiếp liền, sẽ có chủ quyền đối với vùng biển nằm trong các đường thẳng được vẽ bởi các điểm xa nhất của các đảo, vùng nước bên trong các đảo được gọi là vùng nước quần đảo, và các quốc gia này có thể thiết lập các đường đi lại cho tầu thuyền và hàng không, trong đó các quốc gia khác có thể được hưởng quyền qua lại các quần đảo bằng các tuyến đường biển đã định. (4) Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với vùng Đặc quyền kinh tế rộng tối đa 200 hải lý, đối với tài nguyên thiên nhiên và một số hoạt động kinh tế, và thực hiện quyền tài phán đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường. Các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải và tự do hàng không và tự do đặt dây cáp ngầm và đường ống. (5) Quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý có quyền tham gia trên cơ sở công bằng trong việc khai thác một phần thích hợp trong số phần dư dôi của các tài nguyên sống trong vùng Đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển trong cùng khu vực hoặc tiểu khu vực; các loài di cư như cá hoặc sinh vật biển được bảo vệ đặc biệt. (6) Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa (khu vực đáy biển của quốc gia) trong việc việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa. Thềm lục địa có thể kéo dài ít nhất là 200 hải lý từ bờ biển, và có thể  kéo dài không quá 350 hải lý trong những điều kiện cụ thể. Quốc gia ven biển chia sẻ với cộng đồng quốc tế phần lợi tức thu được do khai thác tài nguyên từ bất cứ khu vực nào trong thềm lục địa của quốc gia đó khi nó kéo dài quá 200 hải lý. Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa (được thành lập theo Phụ lục II trong UNCLOS 1982) sẽ có ý kiến đối với quốc gia liên quan về ranh giới ngoài của thềm lục địa khi nó kéo dài quá 200 hải lý. (7) Tất cả các quốc gia đều có quyền tự do truyền thống về hàng hải, bay qua, nghiên cứu khoa học và đánh cá trên vùng biển quốc tế. Các quốc gia có trách nhiệm hợp tác với nhau trong việc thông qua các biện pháp để quản lý và bảo tồn các tài nguyên sống trên biển. (8) Các quốc gia có chung biên giới với biển kín hoặc nửa kín cần hợp tác với nhau trong việc quản lý tài nguyên sống, có chính sách và hoạt động về môi trường cũng như nghiên cứu khoa học. Các quốc gia không có biển có quyền tiếp cận với biển và được tự do quá cảnh thông qua nước quá cảnh để ra biển. Các quốc gia phải ngăn chặn và kiểm soát ô nhiểm môi trường biển và phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra do sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế của mình để kiềm chế những sự ô nhiễm đó. (9) Tất cả các nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phải có sự đồng ý của quốc gia ven biển. Tuy vậy, hầu như trong tất cả mọi trường hợp, quốc gia ven biển có trách nhiệm đồng ý với đề nghị của các quốc gia khác khi việc nghiên cứu được tiến hành vì mục đích hoà bình và đã thực hiện một số yêu cầu chi tiết. Các quốc gia cam kết tăng cường phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển trong những điều kiện “ công bằng và hợp lý” có tính đến đầy đủ những lợi ích hợp pháp. (10) Các quốc gia thành viên phải giải quyết bằng biện pháp hoà bình các tranh chấp liên quan đến việc hiểu và áp dụng Công ước. Các tranh chấp cần được trình lên Toà án quốc tế về luật biển được thành lập theo Công ước, trình lên Toà án công lý quốc tế hoặc trọng tài. Toà án có quyền tài phán riêng biệt đối với những tranh chấp liên quan đến khai thác ở đáy biển.

          Việt Nam là thành viên tích cực, trách nhiệm của UNCLOS 1982

          Sau UNCLOS 1982 được thông qua ngày 30/4/1982, Việt Nam là một trong 107 quốc gia tham gia ký Công ước tại Montego Bay. Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này. Điểm 1 trong Nghị quyết nêu rõ: “ Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982, nước Cộng hòa XHCN Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”. Quốc hội Việt Nam khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải. Quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng Đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế, yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam. Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời cũng tuyên bố rõ lập trường của Nhà nước ta là giải quyết hòa bình các bất đồng liên quan đến Biển Ðông trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển Ðông đối với vùng Đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; Trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản lâu dài, các bên liên quan cần duy trì hòa bình, ổn định trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.

          Tham gia UNCLOS 1982, Việt Nam, quốc gia ven biển, được thừa nhận có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng Đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, thềm lục địa rộng ít nhất 200 hải lý và có thể mở rộng tới 350 hải lý tính từ đường cơ sở. Diện tích các vùng biển và thềm lục địa mà nước ta được hưởng theo quy định của Công ước, khoảng gần 1 triệu km2, rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền. UNCLOS 1982 đã trở thành cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc, quan trọng, được thừa nhận và luôn được viện dẫn trong cuộc đấu tranh cam go, phức tạp để bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa và các quyền và lợi ích chính đáng của nước ta trên biển. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh những những chứng cứ lịch sử, pháp lý chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã được xác lập liên tục, hoà bình từ lâu đời đối với hai quần đảo, Công ước là công cụ pháp lý để phản bác những yêu sách phi lý, ngang ngược của Trung Quốc đối với cái gọi là “đường lưỡi bò” chiếm đến 80% diện tích Biển Đông, vốn là vùng biển nửa kín được bao bọc bởi 9 quốc gia, trong đó có Việt Nam. UNCLOS 1982 cũng là cơ sở pháp lý chung cho việc phân định vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa nước ta với các nước xung quanh Biển Đông như Campuchia, Thái lan, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia… góp phần tạo dựng sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, tạo môi trường ổn định, hoà bình, hợp tác và phát triển trong Biển Đông.

          TQ tìm cách vô hiệu hóa hoặc hướng lái UNCLOS có lợi cho mình

          Ngày 12/7/2016, Tòa Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS 1982 đã chính thức công bố Phán quyết về vụ Philippines kiện Trung Quốc trong đó có những nội dung quan trọng như: bác bỏ quyền lịch sử đối với tài nguyên trong đường 9 đoạn; khẳng định các cấu trúc thuộc Trường Sa không có đủ điều kiện để có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý; các hoạt động của Trung Quốc ngăn cản Philippines thực hiện các quyền của mình trong vùng đặc quyền kinh tế, kể cả vùng biển xung quanh bãi cạn Scarborough là vi phạm UNCLOS 1982; các hoạt động khai thác, xây đảo nhân tạo của Trung Quốc đã gây hại cho môi trường biển; và tất cả những hoạt động đó của Trung Quốc đã làm trầm trọng thêm tranh chấp ở Biển Đông. Trong hơn hai năm qua, Trung Quốc đã tìm mọi cách vô hiệu hóa Phán quyết của Tòa Trọng tài, trong đó có việc quyết liệt triển khai một chiến dịch vận động hành lang và tuyên truyền trên hệ thống thông tin đại chúng với qui mô cực lớn nhằm lôi kéo sự ủng hộ của cộng đồng quốc chống lại Phán quyết. Ngoài ra, Trung Quốc còn đẩy mạnh cải thiện quan hệ với Philippines thông qua cơ chế đàmphán song phương và thỏa thuận hợp tác khai thác chung trên Biển Đông.

          Kết luận: Sau 36 năm kể từ khi ra đời, UNCLOS 1982 ngày càng đóng vai trò quan trọng, hiệu quả trong đời sống luật pháp quốc tế. Đây là sự thoả hiệp giữa các quốc gia vì một nhận thức chung đối với tầm quan trọng sống còn của biển và đại dương đối với sự phát triển của nhân loại. Khi trở thành thành viên của Công ước, các quốc gia có trách nhiệm tuân thủ đầy đủ các quy định trong Công ước, không có ngoại lệ và không có bảo lưu. Vì vậy, không thể có quốc gia nào, khi tham gia sân chơi luật pháp chung này, lại chỉ viện dẫn và áp dụng những quy định trong Công ước có lợi cho quốc gia mình, hoặc không tuân thủ, thậm chí phủ nhận, những quy định không có lợi cho quốc gia mình.

RELATED ARTICLES

Tin mới