Việc Trung Quốc đẩy mạnh nghiên cứu, chế tạo và triển khai radar ở Biển Đông nhằm phục vụ ý đồ kiểm soát toàn bộ khu vực, từng bước thực hiện âm mưu thôn tín Biển Đông. Hành động trên của Trung Quốc không chỉ đe dọa hòa bình, ổn định trong khu vực mà còn đe dọa trực tiếp an ninh quốc gia, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhiều nước láng giềng, khiến những nước này thắt chặt quan hệ an ninh với Mỹ, Nhật Bản, Australia, và những nước khác.
Trung Quốc đã triển khai phi pháp nhiều loại hình radar ở Biển Đông
Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS, Anh) cho biết Trung Quốc đã xây hơn 40 cơ sở radar trên 7 thực thể nước này chiếm đóng phi pháp và biến thành đảo nhân tạo trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam. Trong đó, những cơ sở radar trên 3 thực thể lớn Chữ Thập, Xu Bi và Vành Khăn có khả năng hoạt động tầm xa. Theo IISS, những cơ sở radar phi pháp sẽ góp phần nâng cao khả năng liên kết giữa các thực thể bị Trung Quốc bồi đắp ở Biển Đông, có thể kết nối với chiến khu Nam bộ và Trung tâm tác chiến liên hợp của Quân ủy Trung ương. IISS còn đánh giá những cơ sở đó giúp tăng cường khả năng chỉ huy, kiểm soát các hoạt động của hải quân, hải cảnh và dân quân biển Trung Quốc. Ngoài ra, thông qua mạng lưới radar nói trên, Trung Quốc cũng có thể tăng khả năng tình báo, giám sát và do thám ở Biển Đông. Trong khi đó, Chương trình Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS, Mỹ) cho biết, nhiều trạm radar đã mọc lên ở Châu Viên, Chữ Thập, Ga Ven, Tư Nghĩa, Vành Khăn, Gạc Ma và Xu Bi. Đặc biệt, hệ thống ở Châu Viên được cho là radar tần số cao, với tầm hoạt động lên tới 300 km. “Nếu đúng là radar tần số cao, nó sẽ tăng cường đáng kể khả năng của Trung Quốc theo dõi tàu và máy bay ở Biển Đông. Đá Châu Viên là nơi thích hợp cho việc lắp đặt loại radar này vì nằm ở cực nam của Trường Sa. Có nghĩa đó là nơi tốt nhất nếu bạn muốn radar cảnh báo sớm theo dõi mọi tàu bè và phi cơ đến từ eo biển Malacca và những khu vực khác nằm ở phía Nam, chẳng hạn như Singapore.
Trong khi đó, báo Bưu điện Hoa nam buổi sáng (6/2018) cho biết, Trung Quốc đã sẵn sàng xây dựng một hệ thống radar cực mạnh ở thành phố Tam Á, đảo Hải Nam, có phạm vi hoạt động đến tận Singapore, cách đó 2.000km. Đây sẽ là hệ thống radar mạnh nhất ở Biển Đông. Dù có được sử dụng để tạo ra các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt hay không thì nó vẫn sẽ có nhiều ứng dụng trong quân sự, như nâng cao năng lực tác chiến tàu ngầm của Trung Quốc và làm gián đoạn mạng lưới thông tin liên lạc của các quốc gia khác bằng cách tạo ra một “hố đen” trong bầu khí quyển. Trạm radar của Trung Quốc hoạt động theo cơ chế phát ra các xung năng lượng điện từ cực mạnh để khuấy động tầng điện ly. Bằng cách phân tích sóng radio dội ngược lại, các nhà nghiên cứu có thể đo chính xác sự nhiễu động ở tầng điện ly gây ra bởi các tác động vũ trụ, như tia mặt trời. Hệ thống radar của Trung Quốc ở Tam Á sẽ là hệ thống tương tự đầu tiên như vậy xuất hiện ở Biển Đông. Một nhà nghiên cứu tại cơ sở của dự án Hải Nam cho biết: “Việc tiến hành kế hoạch đã được chính phủ trung ương thông qua. Công trình sẽ được khởi công trước cuối năm nay”. Trong khi đó, một chuyên gia radar cấp cao tại Đại học Xidian (từng làm việc cho Viện Kỹ thuật viễn thông thuộc Quân Giải phóng nhân nhân Trung Quốc), xác nhận rằng dự án Hải Nam sẽ hoạt động theo 2 bộ phận riêng biệt, một cho nghiên cứu dân sự và một cho quân sự. Trước đó, theo một số báo cáo của các nhà khoa học Trung Quốc, có một thiết bị tương tự đã được Trung Quốc triển khai tại Khúc Tĩnh, tỉnh Vân Nam từ năm 2012. Nó được sử dụng để nghiên cứu tầng điện ly và giám sát, phát hiện các mục tiêu cực nhỏ như vệ tinh nano và mảnh vỡ từ các thiết bị không gian dùng trong cả hai lĩnh vực quân sự, dân sự. Ông Zhao Biqiang, nhà nghiên cứu thuộc Viện Địa lý và Vật lý địa cầu tại Bắc Kinh cho biết, chi tiết về hệ thống radar mới có lẽ phải 2-3 năm sau mới được công bố. Chương trình Tam Á chính thức được phát động vào năm 2015, với nguồn vốn ban đầu gần 15,7 triệu USD, do chính phủ trung ương cung cấp. “Mục đích chính của chương trình là nghiên cứu tầng điện ly trên Biển Đông. Hiện nay chưa có thiết bị nào như vậy trong khu vực. Dữ liệu thu được từ radar sẽ bổ sung cho những lỗ hổng trong kiến thức của chúng tôi”. Hiện có nhiều cơ sở tương tự đang được xây dựng ở đại lục với công suất lớn hơn nhiều so với cái chúng tôi đang tiến hành.
Được biết, công nghệ radar mới do Học viện Khoa học Trung Quốc, Tập đoàn Công nghệ Điện tử Trung Quốc và Đại học Nam Xương hợp tác phát triển. Cả 3 đơn vị này đều có mối liên hệ chặt chẽ đến quân đội Trung Quốc. Họ đã cho ra đời một nguyên mẫu với kích cỡ nhỏ hơn, và nó đã bắt đầu thu thập dữ liệu trong vài năm qua. Ngoài ra, dẫn dắt dự án là Giáo sư Wan Weixing – nhà nghiên cứu từng giành giải thưởng trong nhiều dự án quốc phòng liên quan đến tầng điện ly. Theo SCMP, trong những năm qua, quân đội Trung Quốc đã đầu tư vào một lượng lớn công trình nghiên cứu các loại vũ khí tầng điện ly. Trong đó có một thiết bị hàng không có thể giải phóng lượng lớn hóa chất vào khí quyển tầng cao để tạo ra “hố đen” liên lạc phía trên các lực lượng đối phương. Trong trường hợp này, hóa chất sẽ can thiệp vào tầng điện ly, khiến sóng radio bị chặn. Chúng cũng có thể được thiết kế để cho phép một số tín hiệu nhất định, như loại sóng tần số cực thấp do vệ tinh phát ra, lọt qua tầng điện ly và truyền xuống tàu ngầm. Tam Á là căn cứ hải quân chủ lực của Trung Quốc và tại đây Bắc Kinh đã bố trí một hạm đội tàu ngầm hạt nhân. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu vẫn lo ngại rằng nguồn cung ứng năng lượng của đảo Hải Nam có thể sẽ không đủ cho hệ thống radar mới, do nơi đây thiếu các nhà máy phát điện lớn.
Gần đây, các nhà khoa học Trung Quốc cũng đã nâng cấp công nghệ radar của nước này và phát triển hệ thống dành cho hạm đội tàu sân bay nhằm duy trì việc giám sát liên tục các vùng biển. SCMP dẫn nhận định của các nhà khoa học chủ trì chương trình radar “Vượt đường chân trời” (OTH) cho biết, hệ thống radar nâng cấp trang bị cho hạm đội tàu sân bay Trung Quốc sẽ cho phép hải quân nước này phát hiện các mối đe dọa từ tàu, máy bay và tên lửa của đối phương sớm hơn nhiều so với công nghệ hiện thời. Radar OTH đặt trên mặt đất được Mỹ và Liên Xô phát triển đầu tiên trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Hệ thống này cho phép hai nước giám sát vùng lãnh thổ rộng tới hàng nghìn km bằng cách phát sóng radar vào tầng điện ly khí quyển và quay ngược trở lại mặt đất. Tuy nhiên nhiều cơ sở lắp đặt radar OTH trên mặt đất sau đó đã phải đóng cửa hoặc tạm dừng hoạt động do nguy cơ dễ bị tấn công. Radar OTH tiêu thụ lượng điện khổng lồ và phải được xây dựng trên địa hình bằng phẳng và thoáng đãng. Do nằm cố định nên hệ thống radar OTH rất dễ bị tấn công. Điều này khiến nhiều nhà hoạch định quân sự chuyển hướng quan tâm sang các hệ thống kiểm soát và cảnh báo sớm trên không. Một số chuyên gia Trung Quốc cho biết hệ thống radar OTH mới sẽ được trang bị trên tàu. Nguồn tin giấu tên này mạnh miệng tuyên bố hệ thống radar nổi “sẽ tăng cường năng lực thu thập thông tin của hải quân Trung Quốc tại những vùng biển quan trọng” như Biển Đông, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Trung Quốc không phải quốc gia duy nhất phát triển công nghệ radar này. Raytheon, nhà thầu quốc phòng hàng đầu của Mỹ, đã được cấp bằng sáng chế hồi năm 2016 cho việc phát triển hệ thống radar tương tự. Hệ thống radar của Raytheon bao gồm một tàu phát sóng và một số tàu tiếp sóng với ăng ten gắn trên boong tàu. Sóng radar được phát trực tiếp lên khí quyển bởi thiết bị phát sóng trước khi được các tàu tiếp sóng thu nhận, sau đó chuyển tín hiệu cho các tàu sân bay thông qua vệ tinh hoặc chuyển tiếp trên không. Việc triển khai công nghệ radar trên biển đòi hỏi các nhà khoa học phải khắc phục nhiều thách thức, bao gồm điều chỉnh tần số radar, khử cực và định hướng để đảm bảo phù hợp khoảng cách của mục tiêu và các điều kiện của tầng điện ly. Theo Raytheon, hệ thống radar OTH trên biển có tầm giám sát lên tới hơn 1.000 km và có thể bao phủ khu vực rộng hơn 3,4 triệu km2, tương đương diện tích của Ấn Độ. So sánh giữa các hệ thống radar cho thấy, radar của một tàu khu trục hải quân Mỹ có tầm hoạt động khoảng 300 km, trong khi radar của máy bay Boeing E-3 Sentry khoảng 600 km.
Âm mưu của Trung Quốc khi lắp đặt radar trên Biển Đông
Giáo sư Carl Thayer của Học viện Quốc phòng Australia, người từng nhiều năm nghiên cứu về Biển Đông, cho rằng Trung Quốc sẽ có nhiều lợi ích khi lắp đặt hệ thống radar dày đặc trên các đá và rạn san hô mà quốc gia này chiếm đóng và bồi lấp phi pháp trên Biển Đông. Theo ông Carl Thayer, radar, thiết bị nghe lén điện tử và hệ thống thông tin liên lạc sẽ giúp Trung Quốc tăng cường khả năng tình báo, giám sát và trinh sát trên Biển Đông, tuyến hàng hải huyết mạch bậc nhất thế giới. Ông cho rằng hệ thống này còn giúp Bắc Kinh vận hành phi cơ giám sát, máy bay cảnh báo sớm trên không, máy bay không người lái, phi cơ vận tải, máy bay tiếp dầu, chiến đấu cơ và oanh tạc cơ. Biển Đông có thể bị Bắc Kinh giám sát 24/7. Khi hệ thống này hoàn thiện, Trung Quốc có thể tạo ra Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên toàn bộ Biển Đông. Ở thời điểm hiện tại, hệ thống các thiết bị mà Trung Quốc lắp đặt trên các đảo nhân tạo phi pháp có thể tạo ra mạng lưới giám sát rộng lớn. Nó ra đời nhằm phục vụ tham vọng bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Các hệ thống này cũng đang phát huy vai trò của nó, Giáo sư Thayer nói.
Gregory Poling, người đứng đầu Tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), cho biết, Trung Quốc đã gần hoàn tất việc xây dựng trên đá Châu Viên. Sự việc bị phanh phui không lâu sau khi thế giới phát hiện Bắc Kinh đưa HQ-9 tới đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Việc triển khai tên lửa HQ-9 ở đảo Phú Lâm không thực sự đáng chú ý vì nó chưa làm thay đổi cán quân quân sự trên Biển Đông. Ngược lại, việc đưa radar tới Trường Sa có thể tạo ra những thay đổi đáng kể trong thực trạng trên tuyến hàng hải huyết mạch bậc nhất thế giới này. Washington lo ngại mục tiêu cuối cùng của Trung Quốc là biến tuyến hàng hải huyết mạch này trở thành ao nhà của Bắc Kinh. Với hệ thống đường băng dài được xây dựng phi pháp trên các đá và rạn san hô thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Trung Quốc đang cố gắng gia răng khả năng phòng không trên các thực thể mà họ chiếm đóng phi pháp. Nó nằm trong chiến lược chống tiếp cận dài hạn của Trung Quốc, giúp Bắc Kinh có thể kiểm soát toàn bộ Biển Đông. Ông Gregory Poling cũng cho rằng mục tiêu cuối cùng của Bắc Kinh là khiến các quốc gia tuyên bố chủ quyền chồng lấn khác ở Đông Nam Á không thể hoạt động trong hoặc xung quanh quần đảo Trường Sa mà không được sự chấp nhận của Trung Quốc.
Ian Storey, thành viên cấp cao tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, cũng cho rằng: “Hầu hết mọi người nhận ra sự hiện diện của các thiết bị Trung Quốc ở Biển Đông chỉ phục vụ mục đích chiến lược của Trung Quốc. Nó nhằm mục đích quân sự chứ không phải dân sự. Đó là lý do tại sao người Trung Quốc đầu tư tiền của, công sức để xây dựng chúng”. Trong khi đó, CSIS nhận định cải thiện vùng phủ sóng radar cùng với hệ thống phòng không tiên tiến là phần quan trọng để Trung Quốc đạt được mục đích. Bắc Kinh đang hướng tới mục tiêu thiết lập quyền kiểm soát khắp vùng biển và vùng trời trong phạm vi “đường lưỡi bò” trên Biển Đông.
Mức độ nguy hiểm của radar Trung Quốc
Theo NYTimes, hệ thống radar như vậy có thể được sử dụng để phát hiện các hoạt động tàu thuyền qua lại và đo dòng chảy đại dương, đồng thời có khả năng theo dõi máy bay. Trung Quốc cũng lắp đặt một số radar khác trên đá Ga Ven, đá Tư Nghĩa và đá Gạc Ma tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Hệ thống radar này là một mảnh ghép quan trọng trong tính toán của Trung Quốc – cùng với hệ thống phòng không tiên tiến và phạm vi hoạt động gia tăng của máy bay – để Bắc Kinh hướng tới mục tiêu là thiết lập quyền kiểm soát trên vùng biển và vùng trời theo yêu sách “đường 9 đoạn”.
Theo USNI, Bryan Clark, chuyên gia phân tích hàng hải tại Trung tâm Đánh giá chiến lược và Ngân sách (CSBA), cho rằng radar tần số cao trên đá Châu Viên có thể dùng để phát hiện máy bay tàng hình. Những radar tương tự của Mỹ có thể phát hiện các mục tiêu ở phạm vi vượt đường chân trời – khoảng 120 – 320 km. Tuy nhiên, phiên bản của Trung Quốc và Nga còn có thể phát hiện sự hiện diện của máy bay quan sát tầm thấp. Radar tần số cao trên đá Châu Viên có thể truyền tín hiệu trở lại Trung Quốc để cung cấp thông tin cho các hệ thống radar có khả năng phát hiện máy bay tàng hình tốt hơn quét lại, rồi sau đó chuyển những dữ liệu này về hệ thống tên lửa phòng không. Radar cũng có thể cung cấp thông tin cho các chiến đấu cơ của Trung Quốc biết nơi đánh chặn đối thủ.
Dự đoán về cách phản ứng của quốc tế trước việc Trung Quốc bố trí radar, ông Poling cho rằng động thái này sẽ tiếp tục thổi bùng căng thẳng với các quốc gia trong khu vực và cường quốc bên ngoài như Mỹ, Nhật Bản và Australia. Nó sẽ càng làm củng cố cách nhìn ở Đông Nam Á và bên ngoài rằng Trung Quốc không có ý định thay đổi và tìm kiếm giải pháp công bằng với các nước láng giềng. Động thái của Trung Quốc sẽ khiến các nước láng giềng gia tăng củng cố tiềm lực quân sự và thắt chặt quan hệ an ninh với Mỹ, Nhật Bản, Australia, và những nước khác. Các nước liên quan sẽ khuyến khích và thúc đẩy các hoạt động thách thức yêu sách của Trung Quốc, chẳng hạn như hoạt động tự do hàng hải của Mỹ và hoạt động tuần tra của Australia.
Trung Quốc đang nghiên cứu, chế tạo radar khủng
Tập đoàn Công nghệ Điện tử Trung Quốc (CETC) khẳng định thế hệ radar lượng tử mới do đơn vị này sản xuất sẽ có khả năng phát hiện được tên lửa đạn đạo cùng nhiều vật thể bay tốc độ cao khác ở trên vũ trụ.Từ cách đây 2 năm, CETC cho biết các nhà khoa học của tập đoàn này đã thử nghiệm radar lượng tử có tầm hoạt động 100 km, phát hiện được chiến đấu cơ tàng hình ở khoảng cách xa. Trong một triển lãm công nghiệp tại Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, CETC tuyên bố công nghệ mới nhất còn có thể khiến radar lượng tử của tập đoàn này thêm phần “nhạy thính”. Theo đó, loại radar này có thể “theo dõi hiệu quả vật thể bay tốc độ cao trên thượng tầng khí quyển và hơn nữa”. Nhà nghiên cứu Xia Linghao làm việc tại CETC chia sẻ với tờ Thời báo Hoàn cầu rằng công việc lý thuyết đã được hoàn thành và tập đoàn này đang bắt tay vào thử nghiệm loại radar lượng tử mới này. Theo nhà bình luận quân sự Song Zhongping tại Hong Kong (Trung Quốc) cho biết “vật thể bay tốc độ cao” mà CETC nhắc đến ở đây có thể bao gồm tên lửa đạn đạo, vệ tinh ở tầm thấp… Tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (Hong Kong, Trung Quốc) cho biết radar lượng tử vận hành nhờ công nghệ đo photon đơn, dựa trên trạng thái lượng tử của hạt hạ nguyên tử. Do vậy, radar lượng tử vô cùng hữu dụng trong phát hiện những vật thể khó “nắm bắt” như chiến đấu cơ tàng hình. Radar lượng tử thường sản sinh ra các cặp photon. Một photon trong cặp sẽ truyền đi vào không khí trong khi photon còn lại “bám trụ” ở trạm radar. Nếu định vị được mục tiêu, photon ra đi sẽ quay trở lại và được nhận diện bởi photon “song sinh” ở trạm radar. Từ đây, các nhà nghiên cứu sẽ đo đạc photon quay trở về để rút ra kết luận về tốc độ, kích thước, góc tấn công của mục tiêu. Trung Quốc không phải là quốc gia duy nhất đang đầu tư phát triển hệ thống radar lượng tử nhưng được cho là đang nắm trong tay công nghệ tối tân nhất về thiết bị này. Trung Quốc luôn coi các chiến đấu cơ tàng hình của Mỹ là mối đe dọa do vậy cần phải có phương thức phòng thủ. Một nhà nghiên cứu radar quân sự tại một trường đại học ở tây bắc Trung Quốc cho biết phạm vi thực tế của radar mới do CETC phát triển có thể xa hơn nhiều so với tuyên bố. Các nhà khoa học cho biết họ đã bị sốc vì ý tưởng radar lượng tử gần đây vẫn là lĩnh vực gần như thuộc khoa học viễn tưởng. Các nhà khoa học nói rằng một radar lượng tử tạo ra số lượng lớn các cặp photon. Khi được bắn vào không khí, chúng sẽ có khả năng tiếp nhận nhiều thông tin quan trọng về mục tiêu như hình dạng, vị trí, tốc độ, nhiệt độ, thậm chí cả thành phần hóa học của sơn từ photon phản xạ trở lại.
Trung Quốc đang xây dựng một hệ thống radar cực mạnh ở Biển Đông. Theo giới phân tích, nó có thể vô hiệu hóa các hệ thống liên lạc, can thiệp thời tiết và thậm chí gây thiên tai. Mục đích của chương trình là nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của vệ tinh và liên lạc tàu ngầm. Tuy nhiên, việc xây dựng một cỗ máy như vậy đặt ra nhiều thách thức về mặt kỹ thuật và nguồn năng lượng khổng lồ mà nó tiêu thụ khiến chi phí tăng vọt. Cho đến nay, mới có 10 hệ thống radar sử dụng công nghệ này được chế tạo, chủ yếu bởi Mỹ, Liên Xô và Liên minh châu Âu. Chúng được đặt tại các khu vực ven biển chiến lược như Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Bắc Cực. Các thiết bị lớn nhất có thể bắn ra sóng năng lượng tần số cực thấp trên một diện tích rất lớn. Do chúng có khả năng xuyên qua nước, vỏ Trái đất và hộp sọ của người nên một số nhà quan sát lo sợ rằng công nghệ này có thể bị lợi dụng để kích hoạt các trận bão, động đất và thậm chí điều khiển não bộ. Năm 2015, Alan Robock, một nhà khoa học thời tiết tại Đại học Rutgers, New Jersey từng cảnh báo rằng chính phủ nhiều nước có thể sử dụng thứ công nghệ mới như một “siêu vũ khí”, hiện người ta vẫn chưa tìm ra những giới hạn của nó. Tuy nhiên, hầu hết các nhà khoa học chính thống đã bác bỏ mối lo ngại của Robock và cho biết, đến nay, công nghệ này mới chỉ được sử dụng để nghiên cứu thời tiết trong vũ trụ và hỗ trợ một số chiến dịch quân sự nhất định. Họ còn chỉ ra rằng, dù mạnh đến đâu thì những cỗ máy này hiện nay cũng không có đủ năng lượng để can thiệp vào thời tiết ở quy mô lớn tới mức có thể gây ra các thảm họa thiên nhiên.
Ngoài việc nghiên cứu, chế tạo radar, Trung Quốc cũng tích cực đầu tư, mua sắm của nước ngoài. Chính quyền Anh hiện đã cấp giấy phép cho một hãng quốc phòng bán không hạn chế các linh kiện và thiết bị radar quân sự cho Trung Quốc. Một tập đoàn quốc phòng Anh mới đây đã được London bật đèn xanh để cung các khí tài quân sự cho quân đội Trung Quốc, bao gồm cả các tổ hợp radar hàng không có thể được sử dụng cho lực lượng không quân. Theo Bộ Thương mại Quốc tế Anh, tập đoàn giấu tên này đã nhận được giấy phép xuất khẩu không giới hạn (OIEL) cho hợp đồng từ tháng 4/2018. Không giống như những thương vụ cung cấp vũ khí bị giới hạn về số lượng và giá trị hợp đồng trước đó, thỏa thuận lần này cho phép hãng quốc phòng Anh có thể cung cấp lượng hàng hóa không hạn chế cho Trung Quốc. Những mặt hàng này bao gồm thiết bị, linh kiện, phần mềm và công nghệ cho các hệ thống radar quân sự.
Biện pháp đối phó của các nước đối với hệ thống radar của Trung Quốc trên Biển Đông
Bộ Quốc phòng Mỹ đang phát triển hệ thống chiến tranh điện tử thế hệ mới dựa trên trí thông minh nhân tạo (AI), hứa hẹn sẽ hủy diệt radar cao tần của Trung Quốc trên Biển Đông. Theo National Interest, các dự án nghiên cứu nâng cao của cơ quan quốc phòng thuộc Lầu Năm Góc (DARPA) đang thử nghiệm hệ thống chiến tranh điện tử dựa trên trí thông minh nhân tạo. Nếu thành công, hệ thống điều khiển AI mới sẽ cung cấp cho quân đội Mỹ cách thức để tiêu diệt tận gốc hệ thống radar tân tiến của Nga và Trung Quốc. Giám đốc DARPA, tiến sĩ Arati Prabhakar cho biết: “Chúng tôi đang sử dụng trí thông minh nhân tạo để tìm hiểu trong quãng thời gian thực radar của đối thủ đang làm gì và sau đó, trên những máy bay không người lái sẽ tạo ra một hồ sơ cá nhân gây nhiễu mới. Đó là toàn bộ quá trình cảm biến, học tập và thích nghi được diễn ra liên tục”. Hiện tại thế hệ máy bay tàng hình Lockheed Martin, F-22 và F-35 có một hàng dữ liệu lập trình trước các tín hiệu radar của đối phương và hồ sơ gây nhiễu đã được lưu trữ trong thư viện các mối đe doạ.
Tuy nhiên, nếu những máy bay chiến đấu gặp một tín hiệu mà trước đây vẫn chưa gặp phải, hệ thống đăng ký các mối đe dọa chưa có, điều đó có nghĩa là máy bay sẽ dễ dàng bị tiêu diệt. The National Interest cho rằng, radar cao tần Trung Quốc có thể theo dõi các máy bay tàng hình của Mỹ, nhưng ngược lại Mỹ hoàn toàn có thể phá giải. Trong thời chiến, Mỹ hoàn toàn có thể hủy diệt trước các radar này, giống như Mỹ sử dụng máy bay trực thăng vũ trang Apache phá hủy radar tần số thấp của Quân đội Iraq trong chiến dịch “bão táp sa mạc” trước đây. Trong thời bình, Bộ Quốc phòng Mỹ thường triển khai một máy bay tình báo tín hiệu giống như máy bay trinh sát RC-135V/W để thu thập dữ liệu trên một dạng sóng mới. Dữ liệu đó sau đó được gửi đến phòng thí nghiệm để phân tích do đó một hồ sơ gây nhiễu mới có thể được tạo ra. Những hồ sơ gây nhiễu mới sau đó được kết hợp vào một chiến đấu cơ như F-22, F-35, F/A-18 hay bất kỳ loại máy bay tiêm kích nào khác đang hoạt động. Theo ông Pabhakar hiện nay các máy bay chiến đấu của Mỹ chỉ có vài khả năng để phân tích dạng sóng đối phương trong thời gian thực là Northrop Grumman EA-6B Prowler – loại vẫn còn phục vụ trong thủy quân lục chiến và Boeing EA-18G Growler của hải quân. Nếu hệ thống chiến tranh điện tử mới AI được đưa vào hoạt động, nó sẽ tiết kiệm cho Bộ Quốc phòng Mỹ về thời gian, tiền bạc. Thậm chí nó còn có khả năng cứu mạng phi công nếu họ gặp phải một hệ thống tên lửa đất đối không mới của đối phương hoặc radar tần cao như loại mà Trung Quốc đã lắp đặt trên Biển Đông.
Cục Hàng hải Malaysia đang đề xuất xây dựng một trạm radar tại Biển Đông để theo dõi tình hình trên biển, cũng như giúp Kuala Lumpur tăng cường khả năng phát hiện hoạt động phạm tội nhằm vào các tàu chở hàng đi qua vùng biển này. Giám đốc Cục Hàng hải Malaysia, ông Baharin Abdul Hamid cho biết, việc xây dựng một trạm radar mới đã được thảo luận và dự kiến sẽ được đưa vào kế hoạch lần thứ 11 của Malaysia, sáng kiến trên là biện pháp nhằm nâng cao khả năng bảo vệ an ninh tại Biển Đông. Dù không nêu cụ thể địa điểm đặt trạm radar mà Malaysia đang hướng đến, song ông Baharin cho biết trạm radar sẽ giúp sớm phát hiện các tàu tình nghi trong vùng biển của nước này và thông báo sớm tới các cơ quan chức năng để có những biện pháp kịp thời.
Việt Nam triển khai radar chống tàng hình VHF mới của Nga. Radar mới đã áp dụng công nghệ phần mềm máy tính COTS tiên tiến và công nghệ radar trạng thái cố định mới nhất. Ít nhất có 2 chiếc được thiết kế mảng pha quét điện tử chủ động (AESA), có năng lực thay đổi phương hướng chùm sóng nhạy cảm (agile beam-steeringcapabilities), không thua gì radar Aegis SPY-1 Begis của Hải quân Mỹ, đồng thời đã áp dụng máy phát-máy thu trạng thái cố định kiểu mini trong mỗi thiết bị anten thu. Công nghệ kiểm soát sóng tạp tiên tiến, chẳng hạn công nghệ xử lý tín hiệu tự thích ứng không-thời gian trên máy bay cảnh báo sớm E-2D/D của Hải quân Mỹ, chính là một chức năng đã biết trên ít nhất 2 thiết kế VHF của Nga hiện nay. Trước đó, cũng có thông tin cho rằng Việt Nam sẽ mua lô lớn radar phòng không VOSTOK-E của Belarus, đồng thời có thể triển khai ở Biển Đông. Radar VOSTOK-E do xe tải 6X6 vận chuyển cơ động, sau khi đến trận địa sử dụng 3 xe radar VOSTOK-E làm 3 góc hoặc nhiều góc độ để bố trí. Trong tình hình không bị gây nhiễu điện tử, khoảng cách dò tìm tối đa đối với máy bay chiến đấu Su-27 không tàng hình là 360 km, khoảng cách dò tìm đối với máy bay chiến đấu tàng hình F-117 và máy bay ném bom tàng hình B-2 là 350 km. Cho dù bị gây nhiễu điện tử tương đối mạnh bởi máy bay tác chiến điện tử, nó cũng có thể phát hiện máy bay chiến đấu không tàng hình F/A-18 trong cự ly 255 km hoặc phát hiện máy bay chiến đấu tàng hình giống kiểu F-22 trong cự ly ngắn nhất là 57 km, sau đó sẽ do tên lửa phòng không S-300 làm nhiệm vụ bắn rơi chúng.
Đài Loan cũng đang triển khai phi pháp hệ thống radar AN/TPS-117 trên đảo Ba Bình, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu phân tích an ninh Đài Hải của Đài Loan Mai Phục Hưng cho biết, đây là loại radar phòng không ba chiều tầm xa tương đối hiện đại do hãng Lockheed Martin của Mỹ chế tạo. Hiện nay, không rõ loại radar này có thích hợp với môi trường có độ nóng, độ ẩm và độ muối cao như trên đảo Ba Bình hay không, nhưng nếu phía Mỹ đứng đằng sau tham gia và đồng ý cho Đài Loan sử dụng loại radar đó ở đây thì hai bên đã tiến hành các đánh giá liên quan cả về kỹ thuật lẫn chiến thuật. Theo ông Mai Phục Hưng, việc bố trí nó trên đảo Ba Bình chủ yếu là nhằm theo dõi các hoạt động của Trung Quốc Đại lục trong khu vực cũng như các động hướng của các nước tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông, thậm chí còn bao gồm cả các hoạt động trên không của quân đội Mỹ ở Biển Đông, rất có giá trị đối với việc nắm bắt tình hình tại khu vực Trường Sa. Bên cạnh đó, việc bố trí radar AN/TPS-117 tuy không thể giúp Đài Loan phản công lại Trung Quốc Đại lục, cũng không thể răn đe ngăn Trung Quốc Đại lục tấn công, nhưng đó là động thái nhỏ, có ý nghĩa chiến lược, chí ít bắn đi tín hiệu “tôi không bó tay chờ chết”. Do công suất khi hoạt động của radar AN/TPS-117 lên tới 4.5kW, cho nên, cần phải có nguồn điện lớn cung cấp. Trước đây, năng lượng Mặt trời chỉ chiếm 16% tổng lượng điện, nhưng sau khi có lệnh, Cơ quan Tuần tra bờ biển Đài Loan đã yêu cầu lắp đặt thêm nhiều tấm pin Mặt trời, nâng tỷ lệ cung cấp điện bằng năng lượng Mặt trời lên 40%, đảm bảo đủ điện năng để cung cấp cho radar AN/TPS-117 hoạt động.