Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana (5/3) cho rằng, Chính phủ Philippines nên xem xét lại Hiệp ước Phòng thủ chung giữa Mỹ và Philippines để tránh gây ra xung đột vũ trang tiềm tàng với Trung Quốc trên Biển Đông.
Theo ông Lorenzana, môi trường an ninh trong khu vực đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với khi Philippines và Mỹ xây dựng Hiệp ước phòng thủ chung cách đây 68 năm; Philippines không gây xung đột và cũng sẽ không có chiến tranh với bất kỳ nước nào trong tương lai. Kể từ khi Tổng thống Donald Trump nhậm chức, Mỹ đã thường xuyên tiến hành các cuộc tuần tra quân sự ở Biển Đông, điều này khiến gia tăng khả năng xảy ra xung đột quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc ở trong khu vực. Và khi đó, vì Hiệp ước đã có, Philippines đương nhiên trở thành “kẻ trong cuộc”, bị lôi vào cuộc chiến giữa Mỹ và Trung Quốc. Ngoài ra, ông Lorenzana cũng bày tỏ lo ngại về cam kết của Mỹ đối với Philippines và cảnh báo về những hậu quả không thể lường trước được. Năm 1992, quân đội Mỹ đã rút khỏi Philippines sau khi Thượng viện nước này bỏ phiếu chấm dứt hợp đồng cho thuê hai căn cứ của Mỹ trên đất Philippines. Ông Lorenzana cho biết, ngay sau đó người Trung Quốc bắt đầu các hành động coi thường luật pháp quốc tế ở Biển Đông và “Mỹ đã không ngăn chặn” về âm mưu của Trung Quốc chiếm Đá Vành Khăn.
Tuyên bố của ông Lorenzana được đưa ra chỉ vài ngày sau khi Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo (1/3) cam kết sẽ bảo vệ Philippines trước “các vụ tấn công bằng vũ trang” ở khu vực Biển Đông, khẳng định các hoạt động xây đảo và động thái quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông đe dọa tới chủ quyền, an ninh và kinh tế của Philippines cũng như Mỹ, nhấn mạnh Biển Đông là một phần của Thái Bình Dương, nên mọi vụ tấn công nhằm vào lực lượng, máy bay hoặc tàu của Philippines ở Biển Đông sẽ kích hoạt nghĩa vụ phòng thủ chung theo điều 4 trong Hiệp ước Phòng thủ lẫn nhau Mỹ và Philippines; đồng thời tái khẳng định Mỹ luôn đảm bảo cam kết không lay chuyển, đó là giữ Biển Đông luôn là vùng biển mở cho giao thương hàng hải quốc tế, trong bối cảnh Trung Quốc không giấu giếm ý định kiểm soát toàn bộ tuyến đường biển huyết mạch này.
Đáng chú ý, trước đây ông Lorenzana từng nhiều lần kêu gọi xem xét lại Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ – Philippines. Phát biểu tại hội nghị của Hiệp hội các nhà báo quốc tế ở Manila, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana (17/1/2018) cho rằng Manila nên xem xét lại Hiệp ước đồng minh với Washington để làm rõ khi nào Mỹ hỗ trợ nước này trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông là thách thức an ninh “lớn nhất” của Philippines. Theo Bộ trưởng Lorenzana, Philippines tin rằng đến lúc cần ngồi lại với Mỹ và xem xét lại các điều khoản về mối quan hệ đồng minh, cho rằng Philippines và Mỹ là đối tác, có quan hệ lịch sử sâu sắc, song cần xác định rõ vai trò và trách nhiệm của mình khi nhu cầu về việc cùng tham chiến xuất hiện. Ông Lorenzana cho biết một trong các vấn đề ông muốn làm rõ là điều kiện nào sẽ kích hoạt phản ứng hỗ trợ lẫn nhau giữa Mỹ và Philippines theo Hiệp ước bảo vệ đồng minh. Ông đặt câu hỏi liệu Philippines có phải tham chiến hay không nếu “xảy ra bắn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc đâu đó ở đá Vành Khăn”.
Trái ngược với Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana, Ngoại trưởng Philippines Teodoro Locsin lại có cách tiếp nhận thông điệp của ông Pompeo theo hướng tích cực hơn và nói rằng Manila sẽ luôn là đồng minh vững chắc nhất của Washington.
Giám đốc Viện Hàng hải và Luật Biển tại Đại học Philippines Jay Batongbacal nhận định, mặc dù những lo ngại mà Bộ trưởng Lorenzana là hoàn toàn có cơ sở nhưng hiệp ước bảo vệ lẫn nhau sẽ không tự động “kéo” Philippines vào cuộc xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc. Theo ông Batongbacal, bất kỳ một quyết định nào tham gia vào một cuộc chiến như vậy sẽ phải tuân thủ Hiến pháp của Philippines, ngay cả khi hiệp ước với Mỹ yêu cầu điều đó. Nếu Philippines không muốn liên quan đến một cuộc chiến thì có thể từ chối tham gia dựa trên cơ sở Hiến pháp. Và đề xuất của Bộ trưởng Quốc phòng xem xét lại Hiệp ước với Mỹ là không cần thiết.
Hiệp ước An ninh Mỹ – Philippines 1951 (MDT) là công cụ pháp lý quan trọng để Mỹ bảo vệ Philippines trước các hoạt động khiêu khích, đe dọa an ninh từ Trung Quốc. MDT được ký kết vào ngày 30/8/1951 tại Washington, DC giữa đại diện của Philippines và Mỹ, trong đó quy định cả hai nước sẽ hỗ trợ nhau nếu một trong hai nước bị tấn công từ bên ngoài. Cụ thể: Điều II, Mỹ và Philippines bằng cách tự giúp đỡ và hỗ trợ lẫn nhau để duy trì và phát triển năng lực cá nhân và tập thể chống lại các cuộc tấn công vũ trang. Điều III, Mỹ và Philippines thông qua Bộ Trưởng Ngoại giao hoặc các cơ quan đại diện để tham khảo, trao đổi ý kiến liên quan việc thực hiện MDT khi Mỹ hoặc Philippines nhận thấy toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chính trị hay an ninh bị đe dọa bởi cuộc tấn công vũ trang ở bên ngoài Thái Bình Dương. Điều IV, khi Mỹ hoặc Philippines công nhận rằng một cuộc tấn công vũ trang trong khu vực Thái Bình Dương đe dọa đến hòa bình và an ninh của một trong hai nước thì Mỹ hoặc Philippines sẽ có trách nhiệm đảm bảo an toàn cho nước kia. Điều V, một cuộc tấn công vũ trang quy định trong Điều IV bao gồm một cuộc tấn công vũ trang trên lãnh thổ, trên các vùng đảo thuộc chủ quyền của Mỹ hoặc Philippines ở Thái Bình Dương, hoặc tấn công các lực lượng vũ trang, tàu, máy bay của Mỹ hoặc Philippines ở Thái Bình Dương. ĐIỀU VIII, MDT có hiệu lực vô thời hạn.
Các giới chức Philippines từng đề nghị Hiệp ước Phòng thủ chung ký năm 1951 giữa Washington và Manila không áp dụng đối với tuyến đường biển chiến lược bởi lẽ Mỹ không ngăn chặn được việc Trung Quốc bồi lấp nên các đảo nhân tạo từ những đá mà Philippines và một số nước khác trong khu vực có tuyên bố chủ quyền chồng lấn.