Để trỗi dậy phát triển thành cường quốc trên thế giới, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách vĩ mô trong tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, vẫn còn nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình trỗi dậy của Trung Quốc.
Quá trình trỗi dậy của Trung Quốc
Không còn nghi ngờ gì nữa, sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ trở thành một trong những vở kịch nổi bật của thế kỷ 21. Sự phát triển kinh tế phi thường và chính sách ngoại giao linh hoạt của Trung Quốc đã tạo bước biến chuyển cho khu vực Đông Á, và những thập niên trong tương lai sẽ chứng kiến quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc gia tăng mạnh mẽ hơn.
Một số nhà quan sát tin rằng kỷ nguyên của nước Mỹ đang đi đến hồi kết, khi mà trật tự thế giới định hướng bởi phương Tây được thay thế bằng một trật tự ngày càng bị chi phối từ phương Đông. Theo quan điểm này, vở kịch về sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ bao gồm một Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ và một nước Mỹ đang xuống dốc mắc kẹt trong một cuộc đối đầu quyết liệt về các luật lệ và vai trò lãnh đạo hệ thống quốc tế. Và khi mà quốc gia lớn nhất thế giới trỗi dậy không phải từ bên trong mà là từ bên ngoài trật tự thế giới được hình thành hậu Thế chiến II, đó sẽ là một vở kịch hạ màn với vị trí thống trị toàn cục của Trung Quốc và sự khởi đầu của một trật tự thế giới lấy châu Á làm trung tâm. Ngày nay, Trung Quốc có thể có đầy đủ quyền tiếp cận và phát triển thịnh vượng ngay trong chính hệ thống này. Và nếu đúng như vậy thì sự trỗi dậy của Trung Quốc là hoàn toàn có thể.
Trung Quốc đang thực hiện tốt mục tiêu trở thành cường quốc toàn cầu của mình. Xét về kích thước, nền kinh tế Trung Quốc đã lớn lên gấp 4 lần tính từ thời điểm ban hành chính sách cải cách thị trường những năm cuối thập niên 1970 và ước tính sẽ được nhân đôi vào thập niên tiếp theo. Trung Quốc đã trở thành một trong những trung tâm sản xuất hàng đầu trên thế giới và tiêu thụ chừng 1/3 nguồn cung sắt, thép và than đá toàn cầu. Chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc tăng trung bình 18%/năm theo tỉ lệ được điều chỉnh theo lạm phát. Chính sách ngoại giao của Bắc Kinh đã giúp nó vươn đến không chỉ khu vực châu Á mà còn cả khu vực châu Phi, Mỹ Latinh và Trung Đông. Thực chất, nếu Liên Xô chỉ là đối thủ cạnh tranh về mặt quân sự của Mỹ thì giờ đây Trung Quốc nổi lên như là một đối thủ đáng gờm cả về quân sự lẫn kinh tế, phát đi tín hiệu về một sự chuyển dịch sâu sắc trong việc phân bổ quyền lực toàn cầu.
Những yếu tố đe dọa quá trình trỗi dậy của Trung Quốc
Trung Quốc dưới thời Hồ Cẩm Đào là một kỷ nguyên khác. “Sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc” nhường chỗ cho “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa” và tại Đại hội XIX của Đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra vào tháng 10/2017, Tập Cận Bình đã tuyên bố rõ ràng rằng Trung Quốc giờ đây sẽ “tiến gần hơn đến vũ đài trung tâm”. Hiện nay, có rất nhiều thứ cho thấy sự tự tin của Trung Quốc, từ vấn đề Biển Đông đến căn cứ quân sự đầu tiên của họ ở nước ngoài, từ Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á đến sáng kiến “Vành đai và Con đường”, cấu trúc cho sự hiện diện toàn cầu của Trung Quốc ngày càng được tiết lộ.
Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, tiếp tục tồn tại nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng đến quá trình trỗi dậy của Trung Quốc như đặc điểm địa lý, nước Mỹ, sự trỗi dậy và trở lại của các cường quốc khác, “chủ nghĩa ly khai”, sự ổn định kinh tế, vốn vay và nguy cơ vỡ nợ, làn sóng di cư…
Về đặc điểm địa lý: Trung Quốc hiện là quốc gia thương mại lớn nhất thế giới; sự thịnh vượng liên tục của nước này dựa vào các tuyến thông tin liên lạc mở trên biển. Tuy nhiên, quyền tiếp cận biển khơi của Trung Quốc bị giới hạn một cách đáng kể. Từ phía Đông, các tàu phải đi qua những eo biển tiếp giáp với các thực thể thù địch tiềm tàng – Nhật Bản và Đài Loan. Từ phía Tây, quyền tiếp cận Biển Đông về cơ bản bị giới hạn ở các eo biển Malacca, Sunda và Lombok. Khi chống lại khả năng dễ bị tổn thương chiến lược này, thường được mô tả là “tình thế tiến thoái lưỡng nan Malacca”, việc Trung Quốc ồ ạt xây dựng hải quân, xây dựng đảo trên Biển Đông và sáng kiến “Vành đai và Con đường” nên được coi là một chính sách duy nhất. Hãy xem xét vấn đề năng lượng. Theo Cơ quan năng lượng quốc tế, Trung Quốc đã nhập khẩu dầu mỏ để đáp ứng khoảng 64% nhu cầu của họ trong năm 2016, một con số dự kiến sẽ tăng lên đến 80% vào năm 2035. Không phải ngẫu nhiên khi dự án quan trọng nhất của sáng kiến “Vành đai và Con đường” – Hành lang kinh tế Trung Quốc-Pakistan – lại tập trung vào cơ sở hạ tầng giao thông vận tải và năng lượng từ Gwadar đến Tân Cương, đa dạng hóa các tuyến đường cung cấp của Trung Quốc. Trung Quốc đầu tư vào đâu, quân đội của họ sẽ theo đến đó. Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) gần đây đã mở căn cứ ở nước ngoài đầu tiên của họ tại Djibouti, nằm ngoài một nút thắt chiến lược và là một động thái dựa trên những đợt triển khai lực lượng ở Ấn Độ Dương và những đóng góp vào các chiến dịch chống cướp biển của Hải quân PLA. Một chiến lược rõ ràng xuất hiện, làm sáng tỏ cách tiếp cận toàn chính phủ của Trung Quốc tới chính sách “phòng thủ tích cực”. Sự mở rộng của Trung Quốc trên toàn cầu thường được xem là một dấu hiệu của sức mạnh đang gia tăng. Nó hẳn cũng là một sự thừa nhận tình trạng bất ổn đang gia tăng được phản ánh ở các lợi ích toàn cầu được mở rộng của nước này. Việc thành công của “Giấc mộng Trung Hoa” của Tập Cận Bình phần lớn phải vượt qua một vài nút thắt hàng hải chắc chắn khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc do dự.
Nước Mỹ: Cho dù các nhà hoạch định chính sách Mỹ có thích hay không thì tầm nhìn của Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn bao gồm cả việc thay thế Mỹ ở châu Á. Điều đã thay đổi là Trung Quốc giờ đây không chỉ là một cường quốc châu Á mà còn là một bên tham gia chủ yếu trên phạm vi toàn cầu. Như đã được đề cập đến ở phần đầu bài viết, các nhu cầu về nguồn lực của Trung Quốc không thể được đáp ứng trong phạm vi biên giới Trung Quốc. Sự trỗi dậy của quân đội Trung Quốc sẽ theo dấu các nhu cầu của hoạt động thương mại của Trung Quốc và cuối cùng sẽ đòi hỏi phải có các năng lực đáng kể trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, Trung Quốc phải tiến tới tăng cường cả về kinh tế lẫn quân đội của mình dưới bóng của siêu cường có ảnh hưởng lớn là Mỹ mà không kích động một phản ứng có thể gây nguy hiểm đến sự trỗi dậy của Trung Quốc. Mỹ vẫn có lợi thế so với Trung Quốc về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực tế, năng lực quân sự, các liên minh và mối quan hệ đối tác toàn cầu, và kinh nghiệm thực sự trong việc triển khai sức mạnh cả ở châu Á lẫn trên toàn thế giới. Tuy nhiên, Mỹ là một “gã khổng lồ” đang bị phân tâm, với những ưu tiên quốc gia cạnh tranh nhau. Ban lãnh đạo Trung Quốc vốn phải hướng lái với sự thận trọng khi trỗi dậy dưới cái bóng của nền hòa bình kiểu Mỹ. Điều mà ban lãnh đạo Trung Quốc lo ngại là Mỹ có thể đưa ra những kết luận không dễ chịu về bản chất của sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự thách thức của Trung Quốc đối với vai trò lãnh đạo của Mỹ. Hai khả năng có thể xảy ra bao gồm việc bao vây khu vực ngoại vi của Trung Quốc bằng hệ thống phòng thủ tên lửa, hoặc sự trả đũa về kinh tế. Ban lãnh đạo Trung Quốc xác định một “giai đoạn cơ hội chiến lược” mà khi đó sự trỗi dậy của Trung Quốc có khả năng không bị thách thức. Mặc dù Trung Quốc tỏ ra táo bạo hay quyết đoán trong các sáng kiến của họ từ xây đảo trên Biển Đông đến “Vành đai và Con đường”, nhưng đây là những nguy cơ đã được tính toán, được thiết kế nhằm thúc đẩy các tham vọng của Trung Quốc mà không kích động Mỹ có những hành động vượt ra ngoài những gì mà Trung Quốc có thể đối phó.
Sự trỗi dậy và trở lại của các cường quốc khác: Sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ không diễn ra bên trong một khoảng trống. Trung Quốc sẽ phải cạnh tranh không chỉ với Mỹ mà còn với cả một tập hợp các nước lớn khác mà nhiều nước trong số đó đang bắt đầu tập hợp lại thành nhóm để đối trọng với Trung Quốc bởi quan ngại về những tham vọng kinh tế và quân sự của Trung Quốc. Ngoài ra, mỗi một nước trong số này đều có một lợi thế so sánh về địa lý so với Trung Quốc, điều làm phức tạp hơn nữa các tình thế tiến thoái lưỡng nan về địa lý của Trung Quốc. Khu vực Ấn Độ Dương, nơi mà Trung Quốc dựa vào để có các dòng chảy thương mại và các nguồn năng lượng, là cái nôi của một Ấn Độ đang trỗi dậy, nước sẽ liên kết với Mỹ, Úc, Nhật Bản và các nước dân chủ khác có liên quan để triển khai sức mạnh quân sự và kinh tế. Nhật Bản có thể không phải là một quốc gia đang trỗi dậy, nhưng đó là một quốc gia hùng mạnh, và liên minh của họ với Mỹ tuy vậy có thể lập luận là vẫn giữ vững vị trí của nó trong một cuộc chiến với Trung Quốc. Indonesia là một cường quốc đang trỗi dậy, có GDP đạt mức 1.000 tỷ USD, tăng cường các lực lượng hải quân của mình và tham gia các tranh chấp hàng hải, điều có thể đẩy họ đứng về phe đối trọng với Trung Quốc. Nga dù gặp rắc rối về nhân khẩu học và trì trệ về kinh tế, vẫn là một cường quốc quân sự vượt trội. Mặc dù hợp tác quân sự và kinh tế giữa Trung Quốc và Nga hiện tại là đáng kể, nhưng sự liên kết lâu dài của Nga với các lợi ích của Trung Quốc là không chắc chắn, càng nhắc nhở chúng ta rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc diễn ra giữa rất nhiều quốc gia hùng mạnh và có thể nguy hiểm đối với Trung Quốc. Những lo ngại về sự bao vây hoặc kiềm chế do Mỹ dẫn đầu đã hiện diện trong Bộ Chính trị kể từ những thập kỷ mới thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Hiện nay, các cường quốc lớn khác đang tự mình hành động theo những cách mà sẽ củng cố lập trường của họ về sức mạnh kinh tế và quân sự của Trung Quốc. Mặc dù những người phát ngôn và đông đảo người dân Trung Quốc thường chỉ trích sự hợp tác của Mỹ với các nước châu Á khác là “tư tưởng Chiến tranh Lạnh” và dường như thực sự không hiểu được rằng chính những hành động và tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc dẫn đến dư luận và hành động tập thể chống lại Trung Quốc, nhưng không ai nghi ngờ về việc sự hợp tác ngày một gia tăng của các bên tham gia chủ yếu khác là một trong những vấn đề cốt lõi khiến Đảng Cộng sản Trung Quốc lo lắng.
Chủ nghĩa ly khai: Ngân sách Trung Quốc dành cho an ninh trong nước tương tự như quân đội nước này – một sự hiểu biết sâu sắc về sức ép của sự ổn định trong nước. Từ Tân Cương đến Tây Tạng, từ Hong Kong đến Đài Loan, nỗi lo sợ của Trung Quốc về rạn nứt trong nước vẫn tồn tại ngay cả khi Trung Quốc gia tăng sự tập trung vào thế giới bên ngoài. Chiến lược quân sự năm 2015 của Trung Quốc nhấn mạnh “nhiệm vụ khó giải quyết” là duy trì “an ninh chính trị và ổn định xã hội”, trích dẫn phong trào độc lập của người Tây Tạng và Duy Ngô Nhĩ. Ngoài ra, tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc về “chủ nghĩa ly khai” là liên tục nghi ngờ, theo lời của chính họ, “các lực lượng chống Trung Quốc vốn chưa bao giờ từ bỏ nỗ lực của họ xúi giục một cuộc ‘cách mạng màu’ ở nước này”. Điều mà Đảng Cộng sản Trung Quốc làm ở một khu vực nào đó lại được các khu vực khác chú ý tới. Sự thất bại trong việc thực thi chính xác chính sách “Một Trung Quốc, hai chế độ” tại Hong Kong đã tác động đến Đài Loan: Nói chuyện với đông đảo công dân Đài Loan vào năm 2014, một tác giả nhận ra rằng có mối quan ngại về tình trạng “Hong Kong hóa”, một sự thừa nhận rằng bất kỳ sự hợp nhất cuối cùng nào với Đại Lục đều ám chỉ việc mất đi mọi quyền tự do đã được hứa hẹn. Như “Phong trào ô dù” của Hong Kong tiết lộ, bản sắc địa phương đang nổi lên trong thành phố. Sự biến đổi về nhân khẩu học thậm chí còn rõ ràng hơn ở Đài Loan. Năm 2016, 59% người dân Đài Loan khẳng định bản sắc Đài Loan riêng biệt, tăng từ mức 18% vào năm 1992, và chỉ có 3% xem mình là người Hoa. Những hy vọng của Đảng Cộng sản Trung Quốc về hội nhập kinh tế chưa dẫn đến sự đồng hóa về chính trị. Về mặt chính trị, không thể hoàn tất công cuộc “phục hưng dân tộc” nếu không có sự thống nhất hoàn toàn. Điều này cũng đúng về mặt chiến lược. Đài Loan giữ vai trò chủ chốt đối với chuỗi đảo thứ nhất, và việc kiểm soát được nó sẽ biến Trung Quốc trở thành chủ nhân của các vùng biển gần. Theo một cuốn cẩm nang quân sự của Trung Quốc, “Ngay khi Đài Loan tái hợp nhất với Trung Quốc đại lục, thì các tuyến giao thông liên lạc trên biển của Nhật Bản sẽ nằm hoàn toàn trong phạm vi tấn công của máy bay chiến đấu và máy bay ném bom của Trung Quốc”. Ở đây, động cơ chính trị gắn liền với động cơ chiến lược. Cũng như ở Tân Cương, an ninh bên trong gắn liền với an ninh bên ngoài. Hành lang kinh tế Trung Quốc-Pakistan, nỗ lực chính của Trung Quốc nhằm có được quyền tiếp cận trên đất liền đối với khu vực Ấn Độ Dương và các nguồn năng lượng của khu vực này, không chỉ xoay quanh Pakistan hỗn loạn mà còn xoay quanh quyền kiểm soát liên tục của Trung Quốc đối với tỉnh Tây Bắc của họ. Bất chấp tình trạng nhập cư ồ ạt của người Hán tới Tân Cương và Tây Tạng, chỉ có 6% dân số Trung Quốc sinh sống ở nửa phía Tây của nước này, nơi mà bản sắc của sắc tộc không phải là người Hán vẫn mạnh mẽ.
Sự ổn định kinh tế: Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đang chậm lại. Đảng Cộng sản Trung Quốc đang ở giữa cái mà các nhà kinh tế gọi là một sự “tái cân bằng kinh tế”, điều có nghĩa là họ đang dịch chuyển các đầu tàu kinh tế của mình từ một mô hình được thúc đẩy bởi xuất khẩu sang một mô hình được thúc đẩy bởi người tiêu dùng. Trên hết, Trung Quốc phải đối mặt với một gánh nặng nợ nần rất lớn và ngày một gia tăng, tập trung ở các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Mặc dù chính phủ có một số công cụ tài chính và tiền tệ mà họ có thể tùy ý sử dụng, nhưng Trung Quốc có thể sớm có một cuộc khủng hoảng tín dụng mà họ phải chịu trách nhiệm khi các bong bóng tài sản bị vỡ hay khi các gánh nặng nợ nần trở nên không thể chống đỡ được. Bất chấp những lời kêu gọi cải cách thay vì đưa ra gói kích thích, cải cách cơ cấu thực sự vẫn chưa diễn ra, mà bằng chứng là sự mở rộng liên tục của các “thành phố ma”, sự ủng hộ vẫn đang tiếp diễn đối với các công ty hoạt động kém hiệu quả, và sự tồn tại dai dẳng của các khoản vay kém hiệu quả và các khoản vay cần chú ý đặc biệt. Việc tiếp tục nguyên trạng sẽ chỉ làm cho sự dịch chuyển khó khăn hơn khi gói kích thích mất đi hiệu quả của nó và gánh nặng nợ nần gia tăng. Những sáng kiến mới như “Made in China 2025” được thiết kế nhằm nâng cao vị thế của Trung Quốc trong chuỗi giá trị, và công cuộc tìm kiếm các vụ mua bán công nghệ trên toàn cầu, ở Mỹ và đặc biệt là ở châu Âu, cho thấy rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc đang tìm cách đảm bảo việc họ thực hiện được sự chuyển tiếp, nâng cao năng suất và tránh được một cuộc suy thoái kinh tế. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ nặng nề mà sẽ choán hết tâm trí của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong những năm tới.
Vốn vay và nguy cơ vỡ nợ: Trung Quốc đang đứng trên bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ có hệ thống. Nước này đã tránh được một cuộc suy thoái vào năm 2008 chỉ bằng cách bắt tay thực hiện một trong những chiến dịch chi tiêu lớn nhất và dài nhất trong lịch sử, một nỗ lực gồm 2 phần. Trước tiên, đã có một kế hoạch kích thích kinh tế chính thức, một sáng kiến trị giá 586 tỷ USD và kéo dài trong 2 năm. Thứ hai, Bắc Kinh đã buộc các ngân hàng nhà nước phải mở rộng tín dụng, chủ yếu cho các thực thể nhà nước, trong một đợt chi tiêu chưa từng có. Tất cả các bộ phận của nhà nước đều được huy động tham gia chương trình đầy nhiệt huyết này. Lin Zuoming, khi đó là Tổng giám đốc của Tập đoàn công nghiệp hàng không Trung Quốc, đã công khai than phiền vào đầu năm 2009 rằng các quan chức đã buộc doanh nghiệp nhà nước này vay tới 49,2 tỷ USD từ 12 ngân hàng Trung Quốc, tuyên bố rằng ông lo ngại về việc phải làm gì với số tiền đó. Trong 5 năm kể từ năm 2009, các ngân hàng Trung Quốc đã mở rộng một lượng tín dụng gần tương đương với lượng tín dụng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng Mỹ, ngay cả khi vào cuối năm 2008, nền kinh tế Trung Quốc có quy mô chưa bằng 1/3 quy mô nền kinh tế Mỹ. Và chiến dịch cho vay tiêu dùng đã được tiếp tục kể từ cuối giai đoạn 5 năm đó.
Các nhà kỹ trị ở Bắc Kinh từ lâu đã sắp đặt các kết quả, và đó là những gì họ đã làm trong năm 2008. Khi họ chế ngự các lực lượng thị trường tại Trung Quốc, họ đã ngăn chặn sự điều chỉnh mà đã quét qua các nền kinh tế thị trường vào cuối thập kỷ vừa qua. Thế nhưng do các quan chức Trung Quốc quyết tâm tránh một cuộc suy thoái tại quê nhà, những sự mất cân bằng cơ bản trong nền kinh tế Trung Quốc đã trở nên lớn hơn. Sự mất cân bằng nghiêm trọng nhất là tình trạng nợ nần của nước này. Trong năm 2008, tỷ lệ nợ trên GDP của Trung Quốc, một tham số tiêu chuẩn cho tính bền vững của nợ (khả năng chi trả nợ của một quốc gia mà không cần sự hỗ trợ) là 130%. Hiện nay, không có sự nhất trí nào về con số, nhưng nhiều người cho rằng nó có thể ở trên mức 300%, và một số người tin rằng con số này đã vượt qua ngưỡng 400% sang ngưỡng rất cao một khi cái được gọi là các khoản nợ “bị che giấu” được tính đến.
Giờ đây, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang tiếp tục tích lũy nợ để giữ mức tăng trưởng. Tuy nhiên, đất nước họ đang không tăng trưởng theo tốc độ 6,7% như Cơ quan thống kê quốc gia công bố năm 2016. Vào giữa năm 2017, Ngân hàng thế giới đã phát hành một biểu đồ tiết lộ nền kinh tế Trung Quốc trong năm 2016 đã tăng trưởng ở mức 1,2%. Con số đó, một mức thấp đáng kinh ngạc đối với một số người, lại nhất quán với chỉ báo đáng tin cậy nhất về hoạt động kinh tế Trung Quốc: tổng tiêu thụ năng lượng chính. Trong năm 2016, tham số đó đã tăng 1,4%. Kể cả ở mức tăng trưởng 6,7% – hay 6,9% như được công bố cho năm 2017 – Trung Quốc đang mắc nợ nhanh gấp 3 lần so với tốc độ nước này sản xuất sản lượng kinh tế. Bắc Kinh có thể, ít nhất trong một thời gian, tiếp tục tích lũy nợ với tốc độ điên rồ như vậy, vì họ kiểm soát các bên cho vay và bên đi vay lớn, thị trường và tòa án. Sự suy thoái nghiêm trọng đó có thể xuất hiện dưới hình thức một sự sụp đổ – có lẽ là gay gắt nhất trên thế giới- hoặc nhiều thập kỷ suy thoái hoặc sự đình trệ giống như suy thoái. Cho dù nền kinh tế có điều chỉnh như thế nào, thì Trung Quốc cũng không có khả năng bắt kịp với nền kinh tế Mỹ lớn hơn và hiện đang hồi sinh vào bất cứ thời điểm nào trong nửa thế kỷ này. Và sự điều chỉnh của Trung Quốc có thể đến sớm. Tại Đại hội toàn quốc thứ XIX của Đảng Cộng sản Trung Quốc, được tổ chức vào tháng 10/2017, Thống đốc Ngân hàng nhân dân Trung Quốc Chu Tiểu Xuyên đã công khai suy ngẫm về việc Trung Quốc đang trải qua Thời điểm Minsky – thời điểm mà giá trị tài sản sụt giảm đột ngột, báo trước một sự sụp đổ của thị trường. Những bình luận khác thường của lãnh đạo ngân hàng trung ương phản ánh mối quan ngại của người Trung Quốc, cả giới tinh hoa cũng như người dân bình thường. Mối quan tâm đó được thể hiện rõ trong dòng tiền mặt rời khỏi nước này. Theo Bloomberg, dòng vốn thực từ Trung Quốc đổ ra nước ngoài trong năm 2015 đã lên đến 1.000 tỷ USD. Trong năm 2016, có vẻ như dòng vốn ra nằm đâu đó trong khoảng 1.100 tỷ USD. Trong năm 2017, dòng vốn ra đã giảm mạnh, nhưng chỉ vì các nhà kỹ trị Trung Quốc đã áp đặt các biện pháp kiểm soát vốn ngặt nghèo, mà nhiều trong số đó không được công bố chính thức.
Làn sóng di cư: Không chỉ tiền đang “chảy” khỏi Trung Quốc, mà còn cả chính người dân nước này. Các cuộc khảo sát – một số do các cơ quan nhà nước của Trung Quốc thực hiện – lần lượt cho thấy gần một nửa tầng lớp giàu có của quốc gia này có kế hoạch di cư trong khung thời gian 5 năm tới. Làn sóng di cư mới này, được thể hiện trong sự xuất hiện ngày càng nhiều khuôn mặt Trung Quốc tại các thành phố lớn trên thế giới, phản ánh không chỉ nỗi lo lắng về thất bại sắp tới của nền kinh tế. Tập Cận Bình đang đưa Trung Quốc đi theo những phương hướng đặc biệt đáng lo ngại. Việc ông không ngừng theo đuổi quyền kiểm soát đã làm rối loạn Đảng Cộng sản, đảo ngược các bước đi trong nhiều thập kỷ để thể chế hoá nền chính trị Trung Quốc. Trong suốt nhiệm kỳ của ông, đã có những tin đồn về những nỗ lực đảo chínhbất thành, với tin đồn gần đây nhất xuất hiện vào tháng 12/2017.
Nhìn chung, sự trỗi dậy của Trung Quốc tồn tại giữa các vấn đề lớn mà sẽ gây khó khăn cho việc hoàn tất công cuộc “phục hưng dân tộc” của Trung Quốc. Mặc dù sự trỗi dậy của Trung Quốc đánh dấu một sự thay đổi mang tính lịch sử trong cán cân quyền lực thế giới, nhưng cũng có khả năng là cán cân quyền lực nói chung cuối cùng sẽ quay sang chống lại Trung Quốc khi ngày càng có nhiều nước đi đến chỗ hiểu ra được ý nghĩa của “Giấc mộng Trung Hoa” của Tập Cận Bình. Ngoài những phản ứng ngày một gia tăng trước sự tăng cường về quân sự và ép buộc về kinh tế của Trung Quốc, các nước đã bắt đầu phản ứng trước việc Trung Quốc “xuất khẩu” các hệ tư tưởng trong nước của họ.