Trong những năm gần đây, ngoài việc đẩy mạnh các hoạt động xâm chiếm, cải tạo trái phép trên thực địa ở Biển Đông, Trung Quốc còn tích cực thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng để tuyên truyền, lấp liếm về yêu sách “chủ quyền” trong khu vực.
Về mặt đối ngoại, quan chức Trung Quốc (Chính phủ, Ngoại giao, Quốc phòng…) từng đưa ra nhiều tuyên bố tuyên truyền, xuyên tạc cho rằng “Trung Quốc sẽ kiên trì bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc ở Biển Đông; nhấn mạnh Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi ở Biển Đông; đồng thời kêu gọi các nước tôn trọng chủ quyền của Bắc Kinh và giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán song phương”. Phát biểu tại Đại học Quốc gia Singapore, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từng ngang nhiên tuyên bố rằng “những hòn đảo ở Biển Đông là thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ thời cổ xưa”, nhấn mạnh Bắc Kinh luôn luôn ủng hộ giải quyết những tranh chấp này thông qua đối thoại hòa bình, cam kết không “bắt nạt” những nước láng giềng yếu hơn, khẳng định chính sách của Trung Quốc tại Biển Đông là duy trì hòa bình và ổn định, đồng thời cho rằng, môi trường ổn định cho phát triển là “lợi ích chung của tất cả các quốc gia ASEAN”. Trong khi đó, Người phát ngôn Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao Trung Quốc liên tục khẳng định Bắc Kinh có “chủ quyền không thể tranh cãi ở Biển Đông”, tất cả các hoạt động (xây dựng, cải tạo đảo, đá phi pháp, mở tuyến du lịch, triển khai vũ khí sát thương…) đều là công việc nội bộ của Trung Quốc và đây chỉ là các hoạt động phục vụ mục đích dân sự.
Về mặt pháp lý, Trung Quốc đẩy mạnh việc công bố, tuyên truyền các văn bản pháp quy quan trọng về quản lý, quy hoạch biển, cụ thể: Thứ nhất, Trung Quốc công bố “Cương yếu quy hoạch đất đai toàn quốc Trung Quốc năm 2016, tầm nhìn năm 2030”; Luật an toàn giao thông biển sửa đổi; Đại cương “Phương án sử dụng và khai thác hải đảo không người cư trú”; Quốc vụ viện Trung Quốc cũng phê chuẩn “Phương án giám sát Hải dương”; Trung Quốc lần đầu công bố Sách Trắng về “Chính sách hợp tác an ninh châu Á – Thái Bình Dương”, trong đó có nội dung xuyên tạc cho rằng “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam) và vùng nước phụ cận”. Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc cũng trao Cục Hải dương Quốc gia quyền giám sát quản lý các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, kiểm soát, giám sát tàu thuyền và thiết bị, hoạt động hàng hải của nước ngoài trong vùng biển “thuộc quyền tài phán” của Trung Quốc… đối với các địa phương ven biển và cơ quan thực thi luật biển.
Thứ hai, các địa phương ven biển của Trung Quốc đưa ra các quy định, kế hoạch quản lý, giám sát, phát triển về sử dụng, khai thác, kiểm tra giám sát và bảo vệ môi trường biển. Tỉnh Hải Nam Trung Quốc đã công bố “Quy hoạch phát triển du lịch tổng thể năm 2016-2020”, khẳng định sẽ nâng cấp các sản phẩm du lịch dưới nhiều hình thức nhằm kết nối (trái phép) Hải Nam và Hoàng Sa; cái gọi là “Thành phố Tam Sa” thông qua phương án “Quy hoạch thực thi đồng bộ dịch vụ cảng Phú Lâm”; kế hoạch phát triển các nhà máy điện hạt nhân nổi trên biển theo Quy hoạch 5 năm lần thứ 13; Lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm (Bộ Nông nghiệp nông thôn Trung Quốc thông báo tạm ngừng đánh cá có thời hạn từ 12h ngày 1/5/2018 đến 12h ngày 16/8/2018 ở Biển Đông, vùng biển từ 12 độ vĩ Bắc đến đường giao giới vùng biển Phúc Kiến – Quảng Đông kể cả Vịnh Bắc Bộ và vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.)… nhằm phối hợp với chiến lược tổng thể của Chính phủ Trung Quốc, nhất là việc triển khai phát triển du lịch ở Biển Đông, để từng bước hợp thức hóa cơ sở hạ tầng tại khu vực chiếm đóng phi pháp.
Về kinh tế, khoa học kỹ thuật, Trung Quốc đẩy mạnh tuyên truyền hoạt động củng cố kiểm soát trên thực địa bằng nhiều biện pháp trong đó tập trung vào các hoạt động dân sự có hàm lượng công nghệ cao; tìm cách biện minh, giải thích các hành động trên là nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế biển, kết nối thương mại, cung cấp dịch vụ công cho hoạt động hàng hải ở khu vực; chủ động lồng ghép vấn đề hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật biển với các chiến lược lớn “Vành đai, con đường” nhằm xoa dịu căng thẳng và ngăn chặn các nước bên ngoài tìm cách can thiệp vào tranh chấp Biển Đông. Trung Quốc cũng lợi dụng việc phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật để gia tăng ảnh hưởng đối với các nước ASEAN, chia rẽ đoàn kết trong nội bộ ASEAN, ép buộc một số nước phải lệ thuộc và ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Về các hoạt động quân sự, Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về các thành tựu nghiên cứu, chế tạo trang thiết bị quân sự mới như hoàn thiện tàu sân bay nội địa đầu tiên; thử nghiệm các loại vũ khí chiến lược có tính răn đe cao như tên lửa Đông Phong 5C (DF-5C), Đông Phong 16 (DF-16), máy bay tiêm kích J-20…; hoạt động tập trận bắn đạn thật ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; triển khai (bất hợp pháp) tên lửa phòng không HQ-9B và tên lửa chống hạm YJ-12B trên 3 thực thể địa lý đã bị Trung Quốc bồi lấp trái phép thành đảo nhân tạo gồm đá Vành Khăn, đá Xu Bi và đá Chữ Thập (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam). Ngoài ra, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Quốc vụ viện Trung Quốc cũng thông qua phương tiện truyền thông giải thích, biện minh cho việc cải tạo phi pháp các thực thể ở Biển Đông thuộc “phạm vi chủ quyền” của Trung Quốc; khẳng định Bắc Kinh không tiến hành các hoạt động quân sự hóa ở Biển Đông, các hoạt động tập trận là hoạt động thường kỳ và việc triển khai vũ khí chỉ là để bảo vệ công dân Trung Quốc, không nhằm vào bất kỳ nước nào. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhiều lần cho rằng việc Bắc Kinh xây dựng ở Trường Sa là nhằm cải thiện điều kiện làm việc và sinh sống của nhân viên trên đảo, đồng thời thực hiện tốt hơn các cam kết quốc tế; khẳng định việc triển khai tên lửa phòng không ở Vành Khăn, đá Xu Bi và đá Chữ Thập là nhằm “phòng thủ lãnh thổ cần thiết”. Trong khi đó, Bộ Quốc phòng Trung Quốc xác nhận Hải quân Trung Quốc tiến hành đợt tập trận bắn đạn thật kéo dài một tuần ở Biển Đông với sự tham gia của nhóm tác chiến tàu sân bay Liêu Ninh, khẳng định đây là hoạt động “thường lệ”, “phù hợp với chính sách quân sự phòng thủ” của Bắc Kinh, “không đe dọa đến các nước khác”.
Về hoạt động trong lĩnh vực dân sự, Trung Quốc tuyên truyền về việc đang đẩy nhanh quy hoạch quản lý biển, hỗ trợ cung cấp dịch vụ công nhằm đảm bảo an toàn hàng hải trong khu vực, cụ thể: Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thiện việc đặt tên cho 255 cấu trúc ở Biển Đông, mở chi nhánh của Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China) tại cái gọi là “thành phố Tam Sa”, thử nghiệm các chuyến bay dân sự, cho phép “Công ty vận tải tư nhân Hải Hiệp” đưa khách du lịch (đoàn viên thanh niên, sinh viên ra Hoàng Sa); tuyên truyền về việc hạ thủy hai tàu khảo sát khoa học hiện đại có khả năng hoạt động toàn cầu, đưa dữ liệu từ các trạm quan trắc trên các đảo, đá tranh chấp tại Trường Sa vào hệ thống dịch vụ dữ liệu; xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng lớn về giao thông liên lạc, năng lượng, phủ sóng mạng di động, bệnh viện, rạp chiếu phim… ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Về việc xây dựng hình ảnh nước lớn có trách nhiệm, Trung Quốc đẩy mạnh tuyên truyền trên tất cả các phương diện về “quyết tâm, thiện chí và nỗ lực” trong việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông, khẳng định Trung Quốc luôn tuân thủ các quy định pháp luật quốc tế. Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhiều lần tuyên bố “nhờ nỗ lực của Trung Quốc và ASEAN thời gian qua, tình hình Biển Đông đã ổn định”, nhấn mạnh rằng Bắc Kinh muốn duy trì hòa bình ổn định ở Biển Đông. Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị từng hùng hồn tuyên bố Trung Quốc và ASEAN đạt được khung COC là do tạo dựng được môi trường thuận lợi, loại bỏ sự cản trở từ các nước (ám chỉ sự can thiệp của Mỹ trong vấn đề Biển Đông).
Không những vậy, giới chức và truyền thông Trung Quốc cũng tăng cường chỉ trích các nước bên ngoài can thiệp vào tranh chấp Biển Đông. Sau khi các nước (Mỹ, Nhật Bản, Australia, Canada…) có các hoạt động, tuyên bố chỉ trích Trung Quốc quân sự hóa, cải tạo phi pháp, cản trở hoạt động tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông, Trung Quốc thường thông qua các kênh chính thống (Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Đại sứ quán Trung Quốc tại các nước…), kênh truyền thông (Tân Hoa xã, Nhân dân Nhật báo, CCTV…), các diễn đàn đa phương, hội thảo quốc tế (do Trung Quốc tổ chức) để chỉ trích các nước “tìm cách can thiệp vào vấn đề Biển Đông, gây chia rẽ quan hệ giữa Trung Quốc và các nước ASEAN”; khẳng định Biển Đông là vấn đề giữa Trung Quốc và ASEAN, yêu cầu các nước “tôn trọng nỗ lực của các nước trong khu vực nhằm duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông”, cho rằng nhiều nước đang tìm cách gây cản trở vấn đề Biển Đông dưới chiêu bài luật pháp quốc tế. Bộ Ngoại giao, Quốc phòng Trung Quốc đã nhiều lần lên tiếng chỉ trích, thậm chí là cảnh cáo các hoạt động tuần tra đảm bảo tự do hàng hải của Mỹ ở Biển Đông, cho rằng các hoạt động của Mỹ là khiêu khích quân sự và chính trị nghiêm trọng, nhấn mạnh Trung Quốc sẽ sử dụng mọi biện pháp có thể để bảo vệ an ninh và “chủ quyền” quốc gia. Đáng chú ý, Thời báo Hoàn Cầu (nguyệt san của Nhân dân Nhật báo, 29/8/2017) từng có bài viết “cảnh báo” Việt Nam không nên vì tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông mà để ảnh hưởng đến hợp tác thương mại và trao đổi văn hóa với Trung Quốc; cho rằng hai nước không nên để thế lực bên ngoài can thiệp vào quan hệ song phương.
Đáng chú ý, Trung Quốc chủ yếu thông qua một số “kênh” để tuyên truyền về vấn đề Biển Đông. Đầu tiên, Trung Quốc thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Trung Quốc sử dụng các cơ quan thông tấn, truyền thông và báo chí (Tân Hoa xã, Phượng Hoàng, Hoàn Cầu, Sina, Sohu, CCTV…) để đưa tin, hình ảnh, bài viết cập nhật về hoạt động bảo vệ “chủ quyền” biển đảo của quân, dân Trung Quốc; mở nhiều trang diễn đàn (diễn đàn quân sự, diễn đàn Nam Hải…) chuyên đăng các thông tin liên quan Biển Đông nhằm tuyên truyền về vấn đề “chủ quyền”, kích động tinh thần dân tộc và tán phát các thông tin xuyên tạc sự thật khiến người dân Trung Quốc và cộng đồng quốc tế ngộ nhận về “chủ quyền không thể tranh cãi” của Trung Quốc.
Thứ hai, thông qua Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ, ban ngành và cơ quan hành chính các địa phương: Đây là các kênh truyền tải thông tin chính thống nhanh nhất của Trung Quốc. Khi diễn biến tình hình ở Biển Đông trở nên căng thẳng, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc liên tục sử dụng giọng điệu khẳng định “chủ quyền” và bác bỏ tất cả các thông tin liên quan (không có lợi cho Trung Quốc), tìm cách đổ lỗi và chỉ trích các nước. Trong khi đó, quan chức Trung Quốc cũng không ngừng tìm cách lồng ghép các tuyên bố có liên quan vấn đề Biển Đông tại các cuộc gặp, hội nghị, diễn đàn quốc tế.
Thứ ba, thông qua các loại hình ấn phẩm văn hóa, Chính phủ Trung Quốc, các Viện nghiên cứu, trường Đại học… xuất bản nhiều ấn phẩm văn hóa liên quan vấn đề Biển Đông như “Điệp vụ Biển Đỏ/Operation Red Sea” (Theo nội dung thông cáo, 36 giây cuối phim có hình ảnh thể hiện tàu của Trung Quốc về tới lãnh hải Trung Quốc trong khu vực Biển Đông và phát hiện ra một vài chiếc tàu từ xa, hình dáng không rõ nét. Loa từ tàu của Trung Quốc phát ra thông điệp rằng: “Chú ý, đây là Hải quân Trung Quốc. Quý vị sắp tiến vào lãnh hải Trung Quốc, xin hãy đi ngay”); phát hành dưới nhiều hình thức bản đồ, trong đó thâu tóm trái phép gần như toàn bộ Biển Đông; Nhà xuất bản Nhân dân (Trung Quốc) phát hành cuốn sách khoe khoang về “lịch sử, nguồn tài nguyên và vai trò quốc phòng” của cái gọi là “thành phố Tam Sa” – đơn vị hành chính mà Trung Quốc thành lập trái phép trên vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam; phát hành bộ tem phổ thông “Mỹ lệ Trung Quốc”, bao gồm 6 mẫu, trong đó có những mẫu tem đã ngang nhiên đưa vào đó cả hình ảnh biển đảo thuộc chủ quyền Việt Nam; in đèn lồng có chữ “Tam Sa và Nam Sa (bằng tiếng Trung Quốc)” xuất sang thị trường Việt Nam; xuất bản cẩm nang du lịch in bản đồ Việt Nam không có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa…
Thứ tư, thông qua giới văn nghệ sỹ nổi tiếng, Trung Quốc vận động, tranh thủ sức ảnh hưởng của những ngôi sao, văn nghệ sỹ trong giới giải trí để tuyên truyền các tin, hình ảnh nhằm khẳng định “chủ quyền” ở Biển Đông. Nhiều diễn viên, ca sỹ nổi tiếng của Trung Quốc đã phải đưa ra nhưng tuyên bố thể hiện “lòng yêu nước” khi tìm cách lồng ghép vấn đề Biển Đông trên trang cá nhân (Twin, Weibo…) mặc dù nhiều người trong số họ không hề quan tâm và thậm chí không biết Biển Đông ở đâu.
Thứ năm, thông qua giới chuyên gia, học giả trong nước, Chính phủ Trung Quốc đưa ra những bình luận, bài viết tìm cách bao biện cho “chủ quyền” của Trung Quốc ở Biển Đông và lấp liếm các hành động phi pháp của Chính phủ Trung Quốc.
Ngoài ra, Trung Quốc còn thông qua nhiều biện pháp khác để tuyên truyền về “chủ quyền” ở Biển Đông như thuê, mua chuộc các hãng báo chí quốc tế và nhà nghiên cứu viết bài ủng hộ lập trường của Trung Quốc; sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin (phát hành các loại game, lồng ghép bản đồ có đường 9 đoạn vào các dịch vụ ứng dụng công nghệ của Trung Quốc…) để kích động tinh thần bảo vệ biển đảo, xuyên tạc, gây ngộ nhận cho người dân.
Nhìn chung, Bắc Kinh tuyên truyền về biển đảo trên cơ sở tính nhất quán cao, tiềm lực mạnh, giám sát chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến địa phương và được Chính phủ hậu thuẫn, đầu tư mạnh về cơ sở vật chất. Tuy nhiên, nội dung tuyên truyền của Trung Quốc chủ yếu xoay quanh việc tự bao biện cho cái gọi là “chủ quyền” và hành động phi pháp ở Biển Đông, tìm cách chỉ trích, đổ lỗi cho các nước gây căng thẳng trong khu vực và mua chuộc, lôi kéo, thậm chí là ép buộc các nước ủng hộ Trung Quốc. Do vậy, người đọc cần hết sức cảnh giác trước các loại thông tin tuyên truyền sai sự thật của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông.