Dường như, Trung Quốc đang sẵn sàng đương đầu cho một cuộc phiêu lưu mà trong đó, họ là một bên duy nhất, chống lại lẽ phải, chống lại cả cộng đồng còn lại.
Năm 2014, sau khi tiến hành hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam vấp phải sự phản ứng và đấu tranh quyết liệt của phía Việt Nam, Trung Quốc buộc phải rút giàn khoan, bình yên trên Biển Đông trở lại, song chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi. Trung Quốc lại bắt đầu chuyển sang tiến hành bồi đắp, cơi nới mở rộng các bãi đá, bãi cạn tại khu vực quần đảo Trường Sa, thuộc chủ quyền của Việt Nam. Theo Ủy ban Cải cách và Phát triển quốc gia Trung Quốc (NDRC), “phương án xây dựng công trình dân sự tại quần đảo Trường Sa là để cải thiện cuộc sống sinh hoạt và công tác cho nhân viên và binh lính Trung Quốc đồn trú trên đảo, thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ quốc tế, duy trì an ninh hàng hải trên Biển Đông, tăng cường hợp tác với các quốc gia”. Theo đó, kế hoạch xây dựng các công trình dân sự trái phép của Trung Quốc tại Trường Sa chủ yếu gồm các công trình sau: (1) Xây dựng hải đăng cỡ lớn, đồng thời lắp đặt thiết bị dẫn hướng không dây như trạm AIS, các thiết bị an toàn thông tin trên biển như trạm VHF; (2) Xây dựng các công trình cứu trợ khẩn cấp trên biển, tại các công trình cứu trợ này có bố trí thiết bị cứu vớt khẩn cấp và xử lý cứu hộ tràn dầu, bảo đảm an toàn hàng hải. Các công trình này cũng có thể được sử dụng làm nơi cung cấp cơ sở vật chất phục vụ tiếp tế hậu cần, tránh gió bão cho các tàu qua lại trên Biển Đông; (3) Xây dựng trạm quan trắc khí tượng biển; (4) Xây dựng công trình điều trị y tế tổng hợp và khẩn cấp trên biển; (5) Xây dựng công trình xử lý rác thải và nước thải. Tất cả những lời khoa trương hoa mỹ trên, phần nào cũng khiến dư luận một vài nước trong khu vực Đông Nam Á bị mê hoặc. Nhưng theo thời gian, những gì Trung Quốc tiến hành xây dựng ở các thực thể được bồi lấp trên đã bộc lộ chân tướng mục đích, ý đồ sâu xa của Trung Quốc không phải như họ nói.
Chỉ trong vòng 3 – 4 năm, Trung Quốc đã dốc toàn lực ra để bồi đắp, cơi nới, mở rộng 7 thực thể họ chiếm đóng trái phép ở Trường Sa, bao gồm các bãi đá Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Tư Nghĩa, Gạc Ma, Su Bi và Vành Khăn. Tại các thực thể trên, Trung Quốc huy động hạm đội tàu hút cát do họ chế tạo với công năng phù hợp cho hoạt động hút cát trên biển, có công suất lớn ngày đêm nạo vét đất cát, sỏi, đá đào được từ đáy biển khơi phun lên, bồi đắp mở rộng diện tích. Kèm với đó là hàng đoàn xà lan lớn chở đất đá, vật liệu bồi lấp từ đất liền Trung Quốc hoặc từ các nước khác mà Trung Quốc “mua” được cũng ngày đêm lũ lượt kéo về Trường Sa, đổ lên các thực thể. Hàng ngàn công nhân, lao động Trung Quốc được tuyển chọn kỹ lưỡng, đưa ra tham gia hoạt động san lấp, xây dựng ở Trường Sa. Tất cả các hoạt động đó, không tuyên truyền, không phô trương, lẳng lặng gấp rút tiến hành.
Có thể nói, quy mô xây đắp, bồi lấp các bãi đá, bãi cạn để hình thành các đảo nhân tạo của Trung Quốc tại Trường Sa là rất lớn. Theo một tờ báo của Australia, Trung Quốc đã và đang tiến hành chương trình “xây đảo” lớn nhất thế giới, với một diện tích hơn 800 ha đất đá đã được bồi lấp trên các bãi đá ngầm, cuối cùng sẽ tạo ra các đảo nhân tạo có kích thước lớn gấp nhiều lần so với nguyên trạng. Tờ báo này nhấn mạnh: “Trung Quốc đã mở rộng diện tích các đảo họ đang chiếm trên Biển Đông lên khoảng 400 lần, tương đương với 800 ha kể từ tháng 1 năm 2014, ¾ diện tích này thực hiện từ đầu năm 2015 đến nay”. Còn theo tờ Liberation, chi phí tiền bạc Trung Quốc bỏ ra cải tạo các đảo đá tại Trường Sa khó mà tính hết. Ví dụ, đá Chữ Thập từ một rạn san hô chìm, chỉ trong vòng vài tháng, Trung Quốc đã bồi đắp thực thể này trở thành đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa, diện tích của Đá Chữ Thập đã được mở rộng lên gấp 11 lần, khoảng 2 km2. Chi phí cho việc cải tạo riêng bãi đá này đã lên đến khoảng 12 tỷ USD. Tại các thực thể mà Trung Quốc mở rộng diện tích, người ta thấy mỗi ngày, công trình được xây dựng trên đó mỗi khác đi. Ngay như tại đá Chữ Thập, đã hình thành một đường băng sân bay dài 3.000 mét và một hải cảng nước sâu đủ lớn cho tàu chở dầu cỡ lớn neo đậu. Ngoài ra, còn có các kho bãi và cơ sở vật chất cung cấp dịch vụ khác đủ khả năng hỗ trợ cho hàng trăm tàu cá, tàu Hải giám hoạt động.
Được biết, theo các bằng chứng của Mỹ ghi nhận, Trung Quốc đã bồi đắp các rạn san hô, bãi đá thành các đảo nhân tạo, với diện tích khoảng hàng chục cây số vuông. Người Mỹ nhận xét rằng, việc xây dựng các hòn đảo nhân tạo cho thấy “nhu cầu thiết yếu” của Trung Quốc nhằm mở rộng không gian kiểm soát trên biển, bởi khi hoàn thiện việc bồi đắp các đảo đá, Trung Quốc sẽ tự động mở rộng thêm ít nhất 12 hải lý là chiều rộng lãnh hải của các đảo này.
Tuy nhiên, câu chuyện không dừng lại ở đó. Ẩn sau tất cả các công trình dân sự trên thì mục đích lớn nhất của Trung Quốc là phải triển khai được lực lượng quân sự, căn cứ quân sự ở các thực thể được tôn tạo này. Vì nếu không có lực lượng quân sự, căn cứ quân sự ở Trường Sa thì mọi tuyên bố hay hoạt động của Trung Quốc đều trở nên vô nghĩa. Một viên tướng cấp cao nghỉ hưu của quân đội Trung Quốc đã nói toạc ra rằng, khu vực biển của Trung Quốc là rào chắn chiến lược thứ nhất đối với an ninh nội địa. Khu vực duyên hải là tiền tuyến của sự tăng trưởng trong quá trình phát triển kinh tế và xã hội dân sự của Trung Quốc. Nếu phòng thủ bờ biển rơi vào vòng nguy hiểm thì những khu vực trung tâm quan trọng về kinh tế và chính trị của Trung Quốc sẽ bị phơi bày ra trước các mối đe dọa từ bên ngoài. Trong bối cảnh của chiến tranh hiện đại, những kỹ năng quân sự như tấn công tầm xa chính xác phát triển, điều đó khiến cho khu vực duyên hải càng trở nên ý nghĩa hơn đối với phòng thủ trên bờ, là khu vực tạo nên chiều sâu chiến lược và thời gian cảnh báo sớm quý giá. Tóm lại, khu vực duyên hải là cửa ngõ của an ninh quốc gia tổng thể của Trung Quốc.
Như vậy, ý tưởng mà Trung Quốc muốn kiểm soát các vùng biển duyên hải dựa trên căn cứ vào cách tiếp cận với địa chiến lược của một nước có nhiều lo ngại về an ninh liên quan đến cả biển lẫn đất liền. Nước này thường theo các chiến lược an ninh vốn cân bằng sức mạnh trên bờ và trên biển, nhằm phát triển các vòng tròn đồng tâm của sự kiểm soát chiến lược, ảnh hưởng và vươn tới xung quanh khu vực trung tâm mang lợi ích quốc gia thiết yếu của họ. Vì vậy, Biển Đông, biển Hoa Đông và Hoàng Hải là những khu vực mà trong đó các chiến lược gia Trung Quốc cho là cần phải phát triển kiểm soát quân sự, để loại bỏ các mối đe dọa từ bên ngoài và qua đó nâng cao mức độ an ninh của khu vực duyên hải của Trung Quốc.
Thế là, chính nhằm vào mục đích trên mà Trung Quốc tiến hành bồi lấp các thực thể ở Trường Sa chứ không phải vì mục đích dân sự. Cái mục đích này được người Trung Quốc lập luận là “An ninh nâng cao nhằm bảo đảm sự kiểm soát của Trung Quốc đối với Biển Đông, tạo ra một vùng đệm an ninh biển để bảo vệ các trung tâm dân cư lớn thuộc các vùng công nghiệp và văn hóa khu vực duyên hải phía Đông của Trung Quốc”.
Và cũng thế là, 7 thực thể chiếm đóng trái phép ở Trường Sa đã bồi lấp liền được chuyển sang xây dựng các công trình quân sự, hay được gọi theo cách khác là “quân sự hóa”. Tuy nhiên, các hoạt động “quân sự hóa” trên các thực thể bồi lấp trái phép ở Trường Sa không thể che mắt được thiên hạ, nhất là các nước lớn có những phương tiện theo dõi, phát hiện hiện đại. Vì thế, những gì Trung quốc đã làm được truyền thông quốc tế vạch ra như sau:
Tại các thực thể mới được bồi lấp này, ngoài việc xây dựng các sân bay quân sự, nhiều tổ hợp phòng không, không quân đã được lắp đặt, triển khai, nhiều lực lượng vũ trang đồn trú đã được hiện diện. Thậm chí, Trung Quốc đã bố trí cả tên lửa hành trình YJ-12B, có thể tấn công mục tiêu trong bán kính 546km và tiêu diệt mục tiêu trên không ở khoảng cách 296km. Chính bãi đá Chữ Thập cũng đang được Trung Quốc biến từ một bãi đá san hô thành một căn cứ hải quân và không quân trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tại đây, đã xuất hiện các trạm ra-đa, vài trận địa tên lửa tầm trung và tầm xa, tàu chiến, máy bay. Có thông tin cho biết, hiện Bắc Kinh đã xây dựng được 27 căn cứ các loại hiện đại ở các thực thể trên và hầu hết các thực thể đều có đường băng cất hạ cánh cho máy bay quân sự. Có thể nói, những hòn đảo này đã và đang trở thành trung tâm kiểm soát quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông.
Sau khi bị truyền thông quốc tế và các nước liên quan chỉ tên, vạch mặt đúng bản chất sự việc, Trung Quốc buộc phải công khai ý định thật của mình. Ngày 16/06/2015, Trung Quốc đã công khai thừa nhận, sau khi xây dựng xong các đảo nhân tạo (phi pháp) trên Biển Đông, nước này sẽ tiếp tục xây dựng trên đó các công trình để phục vụ cho nhiều mục đích khác, bao gồm cả quân sự. Đến lúc này, bất cứ ai cũng có thể nhận ra được những ý nghĩa thật sự của vấn đề. Đó là: Thứ nhất, Trung Quốc đã thực hiện bước đi chiến lược mới nhằm gây áp lực đối với các nước láng giềng bằng việc đẩy mạnh bồi đắp các đảo nhân tạo và triển khai lực lượng vũ trang đồn trú cũng như xây dựng, lắp đặt các loại phương tiện quân sự hiện đại trên đó. Thứ hai, Trung Quốc thể hiện ý định nâng cao an ninh của họ bằng cách cạnh tranh quyết liệt, cứng rắn với các bên yêu sách khác về chủ quyền, quyền tài phán và quyền kiểm soát đối với Biển Đông. Nó cho thấy, Trung Quốc đã không quan tâm đến lợi ích của các nước khác.
Đương nhiên, các nước trong khu vực và các nước có liên quan khác không thể vô tư khoanh tay ngồi nhìn. Hành động của Trung Quốc trước hết đã vấp phải sự phản ứng mạnh mẽ từ các nước có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Các nước cho rằng, việc xây dựng bất hợp pháp và “quân sự hóa” các đảo nhân tạo đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái ở Biển Đông, bởi các rạn san hô và các đảo chìm là nơi trú ngụ của các loài cá và đây là nguồn lợi thủy sản phong phú đối với ngành khai thác thủy sản, nó nuôi sống hàng ngàn ngư dân ở các nước ven biển, nhưng những thực thể này đang lâm vào tình trạng nguy hiểm bởi các hoạt động bồi đắp phi pháp của Trung Quốc. Càng nguy hiểm hơn là khi Trung Quốc mở rộng các đảo đá thì dẫn tới việc nước này sẽ kiểm soát được hoàn toàn khu vực Biển Đông. Bởi “logic ẩn chứa trong đó là dần dần biến chuyển tình hình theo hướng có lợi cho sự bành trướng của Trung Quốc bằng cách khéo léo dùng thủ đoạn này để thay đổi thế chiến lược tại khu vực”. Chính vì thế, các nước một mặt gia tăng củng cố tiềm lực quốc phòng bản thân để “tự bảo vệ”, nhưng cũng đồng thời đang ngày càng đồng thuận hơn trong việc mở cửa cho các nước có tiềm lực quân sự lớn như Mỹ, Nhật, Úc, Ấn… can dự vào Biển Đông.
Thế nhưng, bất chấp những phản ứng của các nước trong khu vực cũng như dư luận của thế giới, Trung Quốc vẫn ngang nhiên bồi đắp, công khai mục đích quân sự và còn có ý định tiến xa hơn trên con đường xâm chiếm Biển Đông. Ngày 07.05.2015, trong cuộc họp báo thường kỳ, Người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc, Hoa Xuân Oánh tuyên bố, nước này “có quyền lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông. Quyết định về vấn đề này phụ thuộc vào việc an toàn hàng không có bị thách thức hay không và bị thách thức đến mức nào”. Dường như, Trung Quốc đang sẵn sàng đương đầu cho một cuộc phiêu lưu mà trong đó, họ là một bên duy nhất, chống lại lẽ phải, chống lại cả cộng đồng còn lại. Nếu vậy có thể nói, Trung quốc đang mù quáng và điên rồ trong việc hạ thấp và có thể đánh mất lợi ích quốc gia, nhất là lợi ích của nhân dân đất nước mình.