Tuesday, November 26, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaViệt Nam nhất quán về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển...

Việt Nam nhất quán về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông mang tính ràng buộc pháp lý

Trong 20 năm qua, Việt Nam luôn thể hiện quan điểm, thái độ nhất quán về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Theo đó, COC cần có tính ràng buộc pháp lý và có hiệu lực ngăn chặn các hoạt động khiêu khích, đe dọa an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các bên tham gia, đồng thời có thể hỗ trợ, thúc đẩy giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Tình hình tranh chấp phức tạp tại Biển Đông và nguy cơ bùng phát xung đột do tranh chấp không được kiểm soát, đe dọa hòa bình, an ninh, ổn định và phát triển ở Đông Nam Á là vấn đề được đặt ra đã lâu, nhất là từ thập kỷ 1990 trở lại đây. Đã có nhiều nỗ lực quốc tế và khu vực, ở những cấp độ khác nhau, nhằm nghiên cứu và kiến nghị biện pháp khống chế nguy cơ xung đột ở Biển Đông; nhiều văn kiện, tuyên bố đơn phương, song phương, đa phương đã đề cập đến vấn đề này. Xây dựng một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông là phương thức khống chế xung đột được bàn thảo từ những năm cuối thập kỷ 1990, kết quả cụ thể là việc Trung Quốc và 10 nước ASEAN ký kết Tuyên bố về Ứng xử của các Bên tại Biển Đông năm 2002 (gọi tắt là DOC 2002).

Ngay sau khi DOC 2002 ra đời, căng thẳng ở Biển Đông có biểu hiện giảm bớt, nhưng điều đó không kéo dài được bao lâu. Trong những năm tiếp theo, thường xuyên xuất hiện việc các nước cáo buộc nhau vi phạm DOC. Đến những năm 2009-2018, nổi lên nhiều sự kiện gây lo ngại không chỉ đối với các nước ven Biển Đông, mà cả đối với các nước ngoài khu vực có tham gia sử dụng Biển Đông, nhất là sau khi Trung Quốc tiến hành cải tạo và quân sự hóa trái phép 7 đảo, đá ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Trước các hành động khiêu khích và vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc ở Biển Đông, cộng đồng quốc tế đã kịch liệt lên án và có những hành động cứng rắn đáp trả. Trong khi đó, dường như ASEAN và Trung Quốc đang “lúng túng” trong việc đàm phán COC.

Tranh chấp ở Biển Đông và những căng thẳng trong thời gian gần đây

Ở Biển Đông tồn tại chủ yếu hai loại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, đó là tranh chấp về chủ quyền đảo và tranh chấp về phân định ranh giới các vùng biển (bao gồm cả thềm lục địa). Trong khi tranh chấp về chủ quyền đảo liên quan đến lịch sử chiếm hữu và quản lý các đảo, đá, bãi ngầm thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở khu trung tâm Biển Đông, các tranh chấp ranh giới vùng biển bắt nguồn từ việc quốc gia ven biển mở rộng phạm vi các vùng biển của mình theo quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (Công ước Luật biển 1982). Từ góc độ pháp lý, hai loại tranh chấp này về cơ bản được giải quyết trên hai cơ sở khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế tranh chấp về chủ quyền đảo thường liên quan đến tranh chấp về phân định biển do bản thân các đảo tranh chấp cũng có vùng biển riêng của mình.

Xét từ góc độ địa chính trị, cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều có vị trí chiến lược. Nhiều ý kiến cho rằng việc nắm giữ hai quần đảo này đồng nghĩa với việc khống chế các tuyến hàng hải quan trọng tại Biển Đông, hay giành được ưu thế quân sự khi có xung đột ở Biển Đông. Đây có lẽ là yếu tố làm cho tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo, đặc biệt là Trường Sa, được các quốc gia bên ngoài khu vực quan tâm, xuất phát từ lợi ích duy trì tự do hàng hải ở Biển Đông.

Tranh chấp chủ quyền đối với Hoàng Sa là tranh chấp song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cái khó của tranh chấp này không phải ở chỗ có thể tìm ra căn cứ lịch sử và pháp lý thỏa đáng để phân định chủ quyền hay không, mà ở thái độ không chấp nhận thương lượng để tìm giải pháp của một bên tranh chấp. Tranh chấp ở quần đảo Trường Sa là tranh chấp đa phương. Các bên tham gia tranh chấp có yêu sách không đồng nhất và, trừ Brunei, đều đang chiếm giữ một phần quần đảo này. Không những vậy, ở quần đảo Trường Sa còn tồn tại sự không rõ ràng về quy chế pháp lý của từng vị trí đảo đơn lẻ, cụ thể là chúng có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng không. Nếu như một số đảo trong quần đảo Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng thì việc sở hữu các đảo đó cũng đồng nghĩa với việc sở hữu nguồn tài nguyên biển phong phú ở Biển Đông. Sự không rõ ràng trong lập trường của các quốc gia đối với quy chế pháp lý của các đảo tranh chấp cũng là một yếu tố làm cho tranh chấp ở Trường Sa trở nên phức tạp và khó giải quyết.

Tình hình căng thẳng và nguy cơ xung đột phát sinh từ các tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo nói trên thường bắt nguồn từ hành vi sử dụng vũ lực để chiếm đóng các vị trí mới, hoặc củng cố sự hiện diện trên thực địa và khẳng định các yêu sách bằng cách đơn phương áp đặt luật lệ quốc gia và cưỡng chế thi hành bằng sức mạnh tại các vùng biển lân cận hai quần đảo. Nổi bật là các sự kiện diễn ra tại Đá Gạc Ma năm 1988 và bãi Vành Khăn năm 1995. Những sự kiện này góp phần thúc đẩy các nước ASEAN kiên quyết thương lượng với Trung Quốc về một dự thảo COC Biển Đông mà kết quả đạt được là việc thông qua DOC 2002. Căng thẳng ở Biển Đông “trùng xuống” một thời gian ngay sau khi ký DOC 2002, nhưng gia tăng trở lại trong những năm gần đây. Có nhiều lý do dẫn đến việc căng thẳng gia tăng nhưng có hai lý do quan trọng nhất và có liên quan đến nhau. Lý do thứ nhất là sự kém hiệu quả của DOC 2002 trong việc điều chỉnh hành vi của các bên tranh chấp, thể hiện qua hàng loạt sự kiện các bên cáo buộc nhau vi phạm DOC và tình trạng chậm trễ, đi đến bế tắc trong việc triển khai các biện pháp xây dựng lòng tin và các dự án hợp tác trong khuôn khổ DOC. Lý do thứ hai chính là thái độ “áp đặt” hơn của Trung Quốc trong các vấn đề ở Biển Đông. Trên thực địa, Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động của mình trong tất cả các lĩnh vực từ đánh cá, nghiên cứu khoa học đến thăm dò khai thác dầu khí với những động thái khác nhau. Cụ thể, Trung Quốc tái áp đặt lệnh cấm đánh cá ở Biển Đông vào các tháng 6 và 7 hàng năm, thường xuyên cử tàu ngư chính vây bắt, xử phạt nặng ngư dân các nước bị coi là vi phạm lệnh cấm. Từ năm 2010, Trung Quốc cử tàu ngư chính ra khu vực quần đảo Trường Sa để hộ tống, hỗ trợ ngư dân Trung Quốc khai thác ở đây và bắt giữ ngư dân nước khác, kể cả vào những tháng không thuộc thời gian áp đặt lệnh cấm đánh cá của họ, hay va chạm với lực lượng tuần tra, thực thi pháp luật của các bên tranh chấp khác. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, có thông tin cho rằng Trung Quốc đầu tư 22 triệu đô la cho dự án nghiên cứu biển sâu ở Biển Đông. Trong lĩnh vực dầu khí, ngoài việc đầu tư lớn để nâng cao khả năng thăm dò, khai thác ở Biển Đông, Trung Quốc còn gây sức ép với các tập đoàn dầu khí nước ngoài buộc họ rút khỏi các dự án trong khu vực và sẵn sàng tiến hành cản phá trên thực địa hoạt động thăm dò, khai thác của các quốc gia khác, kể cả ở những khu vực không lân cận hai quần đảo bị tranh chấp. Không những vậy, Trung Quốc còn ngang nhiên tiến hành cải tạo 7 đảo, đá ở quần đảo Trường Sa, đẩy nhanh quá trình quân sự hóa quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Những hành động mang tính áp đặt yêu sách cộng với thông tin về việc tăng cường mạnh mẽ ngân sách và lực lượng hải quân của Trung Quốc gây ra một chuỗi phản ứng lo ngại trong khu vực. Nhiều nước trong khu vực quyết định tăng chi tiêu quốc phòng, mua sắm tàu ngầm, tàu chiến, tên lửa, máy bay chiến đấu. Các nước ngoài khu vực, như Mỹ, Nhật, Nga, Ấn Độ đều thể hiện quan tâm hơn đến tình hình Biển Đông cũng như khả năng duy trì tự do hàng hải và sử dụng các cơ sở dịch vụ ven Biển Đông.

Nội dung và vai trò của DOC 2002

Sau sự kiện Vành Khăn năm 1995, Philippines là nước đầu tiên đưa ra ý tưởng về việc xây dựng một COC ở Biển Đông. Trước đó, Philippines đã lần lượt ký với Trung Quốc và Việt Nam hai văn bản được coi những nguyên tắc ứng xử song phương ở Biển Đông. Ý tưởng xây dựng COC ở Biển Đông như là một biện pháp xây dựng lòng tin được các nước ASEAN chính thức ủng hộ tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 29 vào tháng 7/1996. Trung Quốc ban đầu không đồng ý với việc xây dựng một COC riêng về Biển Đông, nêu lý do ASEAN và Trung Quốc đã có Tuyên bố hợp tác hướng tới thế kỷ 21 ký tháng 12/1997. Đến năm 1999 Trung Quốc mới đồng ý thảo luận về COC với ASEAN. Vào thời điểm bắt đầu đàm phán, mỗi bên ASEAN và Trung Quốc có một dự thảo COC riêng của mình.

Dự thảo của Trung Quốc bị Philippines phản đối vì có điều khoản được giải thích là không phù hợp với Hiệp định quân sự mà nước này ký đã với Mỹ. Dự thảo của ASEAN được thông qua tháng 11/1999 trên cơ sở văn bản do Philippines xây dựng sau khi đã dung hòa quan điểm của Malaysia và Việt Nam về vấn đề phạm vi áp dụng. Dự thảo ban đầu của Philippines khá mở, để phạm vi áp dụng của COC là “các khu vực tranh chấp ở Biển Đông”; Malaysia muốn hạn chế COC chỉ điều chỉnh ở “khu vực quần đảo Trường Sa có tranh chấp” để loại trừ các khu vực Malaysia coi là hoàn toàn thuộc về Maláyia; Việt Nam muốn COC điều chỉnh cả tranh chấp nhiều bên ở Trường Sa lẫn tranh chấp song phương ở Hoàng Sa. Cuối cùng, dự thảo được ASEAN thông qua quy định COC sẽ điều chỉnh “vùng tranh chấp thuộc quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”. Việc đề cập đến Hoàng Sa trong COC không được Trung Quốc chấp nhận nhưng Trung Quốc vẫn đồng ý tiếp tục thảo luận các nội dung trong dự thảo của ASEAN.

Vấn đề phạm vi áp dụng là một trong những vấn đề hóc búa nhất trong đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc về COC. Sau hơn ba năm không giải quyết được vấn đề này, ASEAN và Trung Quốc đã đồng ý “hạ cấp” COC xuống thành DOC (tiếng Anh là “Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea”), được ký tại Phnôm Pênh ngày 04/11/2002. Văn bản DOC 2002 không nêu rõ phạm vi áp dụng của các biện pháp ASEAN và Trung Quốc thỏa thuận để xây dựng lòng tin. Ngoài ra, so với dự thảo COC của ASEAN, DOC còn bỏ đi quy định về việc không xây dựng các cấu trúc mới trên những đảo, đá, bãi ngầm… chưa có người đến ở dù vẫn giữ quy định về việc không đưa người đến ở tại những đảo, đá, bãi ngầm này.

Trừ hai điểm khác biệt nói trên, DOC cơ bản thể hiện nội dung dự thảo COC của ASEAN năm 1999. Cụ thể, cũng như dự thảo COC, DOC khẳng định các bên cam kết: (i) Tuân thủ các nguyên tắc nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Luật Biển cùng các văn kiện, tuyên bố khác trong quan hệ giữa các quốc gia; (ii) Tuân thủ nguyên tắc không sử dụng vũ lực, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thông qua đàm phán giữa các bên trực tiếp liên quan, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Luật Biển; (iii) Kiềm chế trong việc thực hiện các hành vi có thể gây phức tạp hoặc gia tăng tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình ổn định, kể cả việc không đưa người đến ở trên những đảo, đá, bãi ngầm chưa có người ở…

Về các biện pháp xây dựng lòng tin, đoạn 5 của DOC cơ bản thể hiện những biện pháp mà dự thảo COC của ASEAN đã liệt kê, bao gồm: Tiến hành tham vấn và trao đổi quan điểm giữa các quan chức quốc phòng và quân sự; Đối xử bình đẳng và nhân đạo với tất cả những người đang gặp hiểm nguy hoặc gặp nạn; Trên cơ sở tự nguyện, thông báo cho các bên khác về việc diễn tập quân sự chung/ kết hợp đang diễn ra cũng như các thông tin liên quan khác.

Bên cạnh các biện pháp xây dựng lòng tin, giống như dự thảo COC, đoạn 6 của DOC cũng nêu khả năng các bên tiến hành các hoạt động hợp tác với hình thức, phạm vi và vị trí sẽ được thỏa thuận giữa các bên liên quan trước khi thực hiện; các lĩnh vực hợp tác có thể bao gồm: bảo vệ môi trường; nghiên cứu khoa học biển; an toàn hàng hải; tìm kiếm cứu nạn; chống tội phạm có tổ chức. Đáng lưu ý là trong quá trình đàm phán, ASEAN đã bỏ quy định liên quan đến việc thăm dò và khai thác tài nguyên ở khu vực tranh chấp khỏi danh mục các lĩnh vực hợp tác

Hai nội dung cuối cùng trong dự thảo COC với sửa đổi phù hợp về câu chữ cũng được thể hiện trong DOC, đó là việc các bên tiếp tục tham vấn về “các vấn đề liên quan” (đoạn 7) và việc khuyến khích các quốc gia khác tuân thủ các nguyên tắc nêu trong Tuyên bố (đoạn 9).

Ngoài những nội dung nêu trên, DOC 2002 còn chứa đựng cam kết tôn trọng quyền tự do hàng hải và hàng không tại Biển Đông theo luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Luật Biển (đoạn 3). Cuối cùng, các bên ký kết DOC khẳng định vai trò của COC trong việc thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực và thỏa thuận sẽ tiếp tục hợp tác trên cơ sở đồng thuận để đạt được mục tiêu xây dựng COC (đoạn 10).

Trên thực tế, DOC 2002 chậm được triển khai, không được các bên triệt để tuân thủ và trong một vài năm gần đây đã không giúp hạn chế các hành động gia tăng căng thẳng ở Biển Đông, gây lo ngại cho các nước trong và ngoài khu vực. Để tìm giải pháp khắc phục thích hợp, cần phân tích những nguyên nhân hạn chế hiệu lực của DOC 2002.

Trước hết DOC 2002 là một văn kiện nửa chính trị nửa pháp lý và không có giá trị ràng buộc. Hiệu lực của văn bản này tùy thuộc vào thiện chí thi hành của các bên. Mặc dù DOC 2002 do Trung Quốc và 10 nước ASEAN ký kết, do phạm vi áp dụng không được quy định rõ, nhưng được hiểu là tập trung vào các khu vực tranh chấp thuộc quần đảo Trường Sa, hiệu lực thực tế của DOC 2002, nhất là liên quan đến triển khai các biện pháp xây dựng lòng tin, tùy thuộc nhiều vào các nước trực tiếp tranh chấp quần đảo Trường Sa. Khi một bên tranh chấp có hành vi củng cố hoặc mở rộng phạm vi chiếm đóng, rất dễ kéo theo sự chạy đua của các bên tranh chấp khác. Bên cạnh đó còn có khó khăn do các bên tranh chấp quần đảo Trường Sa có quan điểm khác nhau, hoặc không rõ ràng, về phạm vi quần đảo và quy chế pháp lý của các vùng biển lân cận quần đảo. Do vậy, có tình trạng lợi dụng sự không rõ ràng đó để vi phạm quy định của DOC.

Hai là, một số quy định của DOC 2002 quá chung chung, dẫn đến việc các quốc gia có sự “vận dụng” khác nhau. Quan trọng nhất là quy định về việc các nước tự kiềm chế, không có các hành vi làm phức tạp hoặc gia tăng tranh chấp hay ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định ở khu vực. Về vấn đề này, DOC chỉ cụ thể hóa một hành vi thuộc loại nêu trên, đó là không đưa người ra ở tại những vị trí chưa bị chiếm đóng, ngoài ra không đưa thêm định hướng nào cho việc xác định loại hành vi mà các bên cam kết không tiến hành. Ngay trong quá trình đàm phán COC/DOC, các bên đã thể hiện quan điểm khác nhau về những hành động không được thực hiện ở khu vực tranh chấp quần đảo, chẳng hạn vấn đề xây dựng cấu trúc mới đã được nêu lên, nhưng không được giữ lại trong văn bản cuối cùng.

Ba là quy định của DOC 2002 về triển khai các biện pháp xây dựng lòng tin quá “lỏng lẻo”, chỉ dừng ở mức các bên “tìm kiếm cách thức” xây dựng lòng tin, có thể thông qua một số biện pháp được gợi ý trong đoạn 5 của DOC. Tương tự như vậy, việc triển khai các hoạt động hợp tác theo đoạn 6 của DOC còn phụ thuộc vào một loạt điều kiện sẽ được các bên liên quan đàm phán xác định tiếp. Trên thực tế, các bên tham gia DOC đã phải mất vài năm mới thỏa thuận được các khuôn khổ, điều kiện thực hiện DOC. Còn các dự án hợp tác trong khuôn khổ DOC mặc dù đã được thảo luận sơ bộ, đến nay vẫn chưa được triển khai, phần nào tạo cớ cho nước có thực lực tiến hành các hoạt động đơn phương.

Ngoài những nguyên nhân kể trên, còn một yếu tố nữa đã trực tiếp cản trở việc triển khai DOC 2002. Đó là Trung Quốc không chấp nhận thực tế các nước ASEAN coi DOC như một văn kiện giữa một bên là Trung Quốc và bên kia là ASEAN và phối hợp lập trường trong quá trình thực hiện DOC. Lập trường này của Trung Quốc xuất phát từ chủ trương chỉ thảo luận song phương các tranh chấp ở Biển Đông. Nhưng ở Biển Đông không chỉ có các tranh chấp song phương, mà còn tồn tại tranh chấp đa phương. Hơn nữa, xét từ góc độ lợi ích có từ việc sử dụng, khai thác Biển Đông, vùng biển này rõ ràng là một vùng biển quốc tế. Do vậy, bất kỳ một văn bản nào điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia ở Biển Đông đều phải tôn trọng bản chất đa lợi ích và quốc tế của Biển Đông.

Ngay khi thông qua DOC 2002, ASEAN và Trung Quốc đã khẳng định DOC chưa phải đích cuối, mà là một bước tiến tới COC. Hiện nay, cũng có nhiều ý kiến cho rằng cần khởi động lại quá trình soạn thảo và thông qua COC Biển Đông. Nhưng nếu so sánh DOC 2002 với dự thảo COC của ASEAN thời đó, hai văn bản này không khác nhau nhiều cả về nội dung và giá trị pháp lý. Vì vậy, vấn đề đặt ra không phải chỉ là cần có một COC Biển Đông, mà là COC đó phải đủ mạnh để giúp ngăn ngừa những hành vi đe dọa hòa bình an ninh và thúc đẩy tôn trọng và thực thi các quy định của Công ước Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc ở Biển Đông. Cần thay đổi cách tiếp cận về COC Biển Đông.

Lập trường COC của Việt Nam: hiện tại và trước đây

Là một bên tranh chấp chính ở Biển Đông, Việt Nam có lợi ích đáng kể liên quan đến kết quả của tiến trình COC và luôn ủng hộ các nỗ lực của ASEAN và Trung Quốc nhằm đạt được COC. Tuy nhiên, Việt Nam tìm kiếm một COC hiểu quả thực chất chứ không phải một tài liệu chính trị thiếu hiệu quả khác. Bình luận về đề xuất của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường vào tháng 11 năm 2018 rằng ASEAN và Trung Quốc nên đặt mục tiêu đạt được COC trong vòng ba năm, Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Trà tuyên bố rằng “Quan trọng nhất là phải đạt được một COC thực chất, hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982, qua đó thực sự đóng góp cho hòa bình, ổn định và an ninh ở Biển Đông nói riêng và khu vực nói chung.” Nói cách khác, mối quan tâm chính của Việt Nam là nội dung thực chất của COC tương lai.

Xem xét kỹ sự tham gia của Việt Nam vào tiến trình này cho thấy Việt Nam đã duy trì một lập trường khá nhất quán trong các vấn đề chính của COC.

Về phạm vi địa lý, Việt Nam luôn tìm kiếm một COC áp dụng cho cả Hoàng Sa và Trường Sa cũng như các vùng biển tranh chấp trên Biển Đông. Điều này là do Việt Nam xem quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ đang bị tranh chấp nhưng Trung Quốc không thừa nhận có tranh chấp, trong khi một nửa quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm từ Việt Nam vào năm 1974. Hơn nữa, các cơ quan chấp pháp của Trung Quốc thường xuyên quấy rối hoặc tấn công ngư dân Việt Nam trong vùng biển xung quanh Quần đảo Hoàng Sa. Ví dụ gần đây nhất liên quan đến một tàu cá Việt Nam khi đang neo đậu gần Đá Lồi thuộc Quần đảo Hoàng Sa vào ngày 6 tháng 3 năm 2019 thì bị một tàu Hải giám Trung Quốc truy đuổi và bắn vòi rồng. Chiếc tàu này sau đó đã bị chìm khi va phải đá ngầm trong lúc bị truy đuổi. Do đó, theo quan điểm của Việt Nam, COC cần phải được áp dụng cho cả Hoàng Sa để ngăn chặn các sự cố tương tự xảy ra và làm gia tăng căng thẳng trên biển giữa Trung Quốc và các quốc gia khác.

Về địa vị pháp lý của COC, trong những năm 1990, Việt Nam và các quốc gia thành viên ASEAN khác đã không nêu ra vấn đề này bởi vì các thành viên ASEAN tại thời điểm đó chủ yếu coi COC là một công cụ xây dựng lòng tin chủ yếu nhằm mục đích khuyến khích các quốc gia yêu sách tự kiềm chế. Hơn nữa, về bản chất, COC là “luật mềm” và thông thường không đi kèm các cơ chế thực thi chặt chẽ. Việc thực hiện COC thường dựa trên thiện chí của các nước tham gia. Tuy nhiên, thực tế trong hai thập niên qua, cùng với sự vi phạm DOC nhiều lần của các bên ký kết, cho thấy một niềm tin như vậy là sai lầm và một COC không ràng buộc sẽ ít có tác dụng trong việc đạt được mục đích duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông. Do đó, lần này Việt Nam có xu hướng nhấn mạnh tính ràng buộc pháp lý của COC bằng cách đề xuất rằng các quốc gia ký kết phải chịu ràng buộc toàn bộ bởi COC mà không có quyền bảo lưu. Đồng thời, việc Việt Nam yêu cầu COC phải được phê chuẩn bởi các quốc gia ký kết theo thủ tục pháp lý trong nước có nghĩa là Việt Nam muốn xem COC là “luật cứng” mặc dù có tên gọi là “Bộ Quy tắc”.

Tương tự như vấn đề địa vị pháp lý, trong những năm 1990, Việt Nam không nêu ra vấn đề giải quyết tranh chấp liên quan đến việc thực hiện COC tương lai. Điều này là do, như đã đề cập ở trên, Việt Nam và các thành viên ASEAN khác không hình dung COC tương lai sẽ mang tính ràng buộc pháp lý, do vậy không cần phải đưa ra các cơ chế giải quyết tranh chấp về việc thực thi COC. Hiện tại, Việt Nam muốn có một COC ràng buộc nên đã đề xuất các biện pháp giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc thực thi COC bằng các biện pháp hữu nghị như đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải hoặc các cơ chế giải quyết tranh chấp theo các điều khoản liên quan của Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á.

Đáng chú ý, Việt Nam cũng nói rõ rằng không có điều khoản nào trong COC ngăn cản việc sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp hòa bình khác, như trọng tài, tòa án, các cơ quan hoặc tổ chức khu vực, hoặc theo dàn xếp do các bên tự thỏa thuận. Điều này ngụ ý rằng Việt Nam muốn tiếp tục để ngỏ lựa chọn pháp lý nhằm đối phó với Trung Quốc trong các tranh chấp lãnh thổ và trên biển cũng như các tranh chấp phát sinh từ việc thực thi COC. Lập trường này là có thể hiểu được nếu xét những nỗ lực bền bỉ của Việt Nam trong việc tích lũy các bằng chứng lịch sử và pháp lý nhằm chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh pháp lý, trong đó Việt Nam sẽ vận dụng các cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết các bất bình đối với Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt là hành vi cưỡng chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc vào năm 1974. Trong một cuộc họp báo về vụ giàn khoan vào năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lúc đó khẳng định Việt Nam đang xem xét các lựa chọn khác nhau để bảo vệ lợi ích trên biển của mình chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc, trong đó có biện pháp pháp lý phù hợp với luật pháp quốc tế. Cũng cần lưu ý rằng khi Philippines đệ trình vụ kiện trọng tài chống lại các yêu sách Biển Đông của Trung Quốc vào năm 2013, Trung Quốc đã phản đối mạnh mẽ hành động này bằng cách trích dẫn điều khoản của DOC rằng các Bên nên giải quyết các khác biệt thông qua “tham vấn và đối thoại”.

Cuối cùng, liên quan đến nghĩa vụ hợp tác, Việt Nam đã đưa ra danh sách những điều cần thiết cho một COC thực chất và hiệu quả. Trong khi các yêu cầu của Việt Nam cũng như các thành viên ASEAN khác thể hiện trong COC ASEAN 1999 mang tính bao quát và không cụ thể, thì các yêu cầu của Hà Nội trong đàm phán COC hiện nay cụ thể hơn nhiều và dựa trên kinh nghiệm đối phó với Trung Quốc trong quá trình thực hiện DOC 2002. Ví dụ, đòi hỏi các Bên phải tôn trọng các vùng biển theo quy định của UNCLOS 1982 dường như là do Trung Quốc từng xâm nhập vào EEZ của Việt Nam (ví dụ như cuộc khủng hoảng giàn khoan 2014) hoặc việc nước này liên tục quấy rối các hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế. Các yêu cầu về việc không xây dựng đảo nhân tạo hoặc không quân sự hóa các thực thể đã được đưa ra trong bối cảnh Trung Quốc xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông trong những năm gần đây. Tương tự như vậy, yêu cầu về việc không chặn các tàu chở hàng tiếp tế hoặc luân chuyển nhân sự phát sinh từ việc Trung Quốc từng tìm cách chặn các tàu Việt Nam cung cấp các đồ tiếp tế tới các điểm đảo mà Việt Nam đang đóng giữ tại quần đảo Trường Sa. Trong khi đó, Việt Nam phản đối tuyên bố của bất kỳ Bên nào về thiết lập ADIZ ở Biển Đông là do Việt Nam từ lâu ủng hộ tự do hàng hải và hàng không quốc tế cũng như lo ngại rằng Bắc Kinh sẽ thành lập một ADIZ trên Biển Đông giống như Trung Quốc đã làm ở Biển Hoa Đông năm 2013. Do đó, yêu cầu cấm hành vi trên của Hà Nội là một động thái chặn trước khôn ngoan nhằm đưa Bắc Kinh vào tầm ngắm dư luận nếu Trung Quốc cân nhắc phương án này.

Nhìn chung, lập trường của Việt Nam về COC là khá nhất quán trong 20 năm qua. Sự cụ thể, rõ ràng hơn trong đàm phán COC hiện nay chủ yếu bắt nguồn từ sự thất vọng với những hạn chế của DOC 2002 trong việc kìm hãm sự hung hăng trên biển của Trung Quốc.

RELATED ARTICLES

Tin mới