Để tăng cường khả năng kiểm soát phi pháp ở Biển Đông, Trung Quốc đã, đang và sẽ tiếp tục thúc đẩy nghiên cứu, chế tạo, triển khai các hệ thống giám sát trên không, trên mặt nước và dưới đáy biển ở Biển Đông. Những hệ thống này là một trong những công cụ nguy hiểm để Trung Quốc thúc đẩy thực hiện âm mưu độc chiếm Biển Đông.
Hệ thống vệ tinh giám sát trên không
Cùng với trình độ khoa học kỹ thuật của Trung Quốc ngày càng phát triển, trong những năm gần đây, Bắc Kinh đã tích cực nghiên cứu, chế tạo và đưa vào sử dụng nhiều hệ thống vệ tinh hiện đại, có tầm quan sát tốt. Ngoài việc phục vụ các mục đích dân sự, hệ thống vệ tinh của Trung Quốc còn được triển khai thành lực lượng trinh sát chiến lược, được sử dụng trong các hoạt động trinh sát, kiểm soát và theo dõi quân sự. Trong đó, việc giám sát, theo dõi phi pháp ở Biển Đông là một trong những mục tiêu chiến lược được Bắc Kinh đặc biệt quan tâm.
Giám sát biển được coi là một nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển vệ tinh của Bắc Kinh, được ưu tiên ở cấp quốc gia và là một trong 8 lĩnh vực quan trọng đã được xác định trong Kế hoạch Phát triển Công nghệ Cao của Nhà nước mang số hiệu 863. Viện Công nghệ Vũ trụ Trung Quốc (CAST) và một cơ quan nhà nước (SOA) có nhiệm vụ thiết kế, phát triển và quản lý các vệ tinh giám sát biển đầu tiên của Trung Quốc. Thời gian vừa qua, quân đội Trung Quốc đã phóng khá nhiều vệ tinh trinh sát biển với khả năng hỗ trợ tác chiến cho tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình và tên lửa phòng không, như các vệ tinh quang – điện tử (EO) cung cấp hình ảnh số; vệ tinh mang rađa mặt mở tổng hợp (SAR) để quan sát ban đêm, cung cấp hình ảnh trong mọi điều kiện thời tiết; vệ tinh tình báo điện tử (ELINT) để xác định vị trí và nhận dạng các tàu bằng phát xạ điện từ.
Bắt đầu từ tháng 5/2002, Trung Quốc phóng vệ tinh giám sát biển đầu tiên Hải Dương-1A (HY-1A) lên quỹ đạo. Vệ tinh này theo dõi nhiệt độ và màu sắc nước biển, đồng thời thực hiện cả nhiệm vụ quân sự. Đến tháng 4/2006, Bắc Kinh phóng vệ tinh Dao cảm để đẩy nhanh quá trình kiểm soát, theo dõi ở Biển Đông. Tháng 4/2007, Trung Quốc tiếp tục phóng vệ tinh Hải Dương-1B để giám sát các vùng biển, kể cả các vùng biển phía Đông và Nam Trung Quốc. Cùng năm, Bắc Kinh triển khai 3 vệ tinh dẫn đường Bắc Đẩu-1, tuy việc cung cấp dịch vụ ở phạm vi từ 70-140 kinh độ đông và từ 5-55 vĩ độ bắc còn hạn chế nhưng khu vực dẫn đường chính xác tới 20m. Năm 2012, quân đội Trung Quốc đã phóng 11 vệ tinh cảm biến từ xa (remote sensing) mới, 3 vệ tinh thông tin liên lạc và 1 vệ tinh chuyển tiếp để liên lạc với các trạm mặt đất. Trung Quốc cũng đã phóng các hệ thống vệ tinh cảnh giới đại dương hải quân (NOSS) phiên bản thứ ba vào tháng 9/2013. Trong năm 2016, Bắc Kinh phóng vệ tinh “Gaofen3” được trang bị hệ thống radar, có khả năng chụp hình ảnh từ vũ trụ với độ phân giải lên tới 1 mét và hoạt động được trong mọi thời thiết để “giám sát môi trường biển, đảo, đá, tàu và các giếng dầu”. Hiện Trung Quốc đang có kế hoạch sẽ phóng thêm 10 vệ tinh quang học và 15 vệ tinh Hải Dương để tăng cường giám sát Biển Đông. Đáng chú ý, những vệ tinh trên còn có khả năng phân tích mọi vật thể trên vùng biển này một cách chi tiết đến mức có thể xác định được cấu trúc của các con tàu.
Song song với việc phóng vệ tinh vào vũ trụ, Trung Quốc cũng xây dựng, đưa vào sử dụng các trạm thu nhận tín hiệu mặt đất, trong đó có trạm đặt tại thành phố Tam Á, tỉnh Hải Nam, được lắp đặt hai hệ thống truyền và nhận dữ liệu, lấy thông tin từ hơn 10 vệ tinh gồm: vệ tinh Thực tiễn số 9, vệ tinh Gám sát môi trường và thiên tai, vệ tinh Giám sát tài nguyên số 3… và truyền dữ liệu bằng cáp quang tốc độ cao. Với trạm này, Trung Quốc được cho là có khả năng thu thập dữ liệu qua vệ tinh về khu vực Biển Đông, qua đó, phân tích, dự báo tình hình môi trường, giám sát thiên tai, nghiên cứu tác động biến đổi khí hậu, giám sát trái phép những thay đổi đối với các đảo trên Biển Đông cũng như giúp nước này hoàn thiện trái phép các hệ thống nghiên cứu khoa học như: hệ thống bảo vệ môi trường sinh thái, hệ thống giám sát băng cháy, hệ thống nghiên cứu địa chất đáy biển, hệ thống giám sát tài nguyên nguồn cá…
Mạng lưới máy bay không người lái giám sát Biển Đông
Bộ Tài nguyên Trung Quốc đang xây dựng mạng các máy bay không người lái (drone) để giám sát và chuyển tiếp thông tin từ các đảo nhân tạo trên Biển Đông. Hệ thống gồm 6 vệ tinh quang học, 2 vệ tinh siêu âm, 2 vệ tinh radar có thể theo dõi trong thời gian thực về giao thông hàng hải ở Biển Đông và một mạng lưới gồm các drone mang theo máy ảnh độ phân giải cao, phương tiện liên lạc di động đóng vai trò trạm chuyển tiếp vào mạng lưới thông tin hàng hải dựa trên vệ tinh. Các drone hạng nhẹ này sẽ bổ sung cho khả năng viễn thám của các vệ tinh Trung Quốc, thường bị ảnh hưởng bởi thời tiết nhiều mây trong khu vực. Mạng lưới drone cung cấp hình ảnh độ phân giải cao, đa góc và theo thời gian thực. Các xe chuyển tiếp thông tin có thể triển khai đến những nơi thiếu trạm liên lạc mặt đất để nhận tín hiệu gửi về từ drone. Thông tin thu được có thể chuyển lên vệ tinh dưới dạng ảnh tĩnh hoặc phát trực tiếp, cuối cùng sẽ được hiển thị trên màn hình tại sở chỉ huy cách xa hàng nghìn km ở tỉnh Quảng Đông.
Văn phòng Bộ Tài nguyên Trung Quốc ngang nhiên cho rằng “chuỗi liên lạc từ các drone giúp chúng tôi tăng cường sự giám sát liên tục đối với Biển Đông và mở rộng phạm vi giám sát của chúng tôi đến những vùng biển xa xôi”; tuyên truyền rằng “hệ thống này đã được sử dụng trong quản lý giao thông hàng hải, bao gồm kiểm tra các dấu hiệu đáng ngờ, các địa điểm hay xảy ra bất ổn và giám sát biển đảo theo thời gian thực. Mạng lưới này sẽ đóng vai trò quan trọng trong các trường hợp quan sát thảm họa và ứng phó khẩn cấp”.
Hệ thống định vị ở Biển Đông
Theo Phòng thí nghiệm âm thanh Thượng Hải thuộc Viện Khoa học Trung Quốc, hệ thống định vị trên biển, còn được gọi là UGPS, sẽ cung cấp hỗ trợ kỹ thuật quan trọng cho mạng lưới dưới biển của Trung Quốc, đặc biệt cho các tàu lặn. Hệ thống UGPS sẽ hoạt động dựa trên hệ thống vệ tinh định vị Bắc Đẩu của Trung Quốc. Hệ thống Bắc Đẩu do Trung Quốc tự phát triển và sử dụng dịch vụ định vị của nước này, thay vì dịch vụ định vị toàn cầu GPS của Mỹ. Theo đó, những tín hiệu định vị vô tuyến khó có thể xâm nhập vùng nước sâu. Do vậy, tàu ngầm và thiết bị lặn không người lái không thể dùng những hệ thống vệ tinh định vị hiện có. UGPS sẽ dùng tín hiệu sóng âm thanh thay vì sóng vô tuyến cho việc định vị dưới nước.
Tuy vậy, Phòng thí nghiệm âm thanh Thượng Hải không tiết lộ UGPS sẽ hoạt động hiệu quả ở độ sâu bao nhiêu dưới đáy biển, cũng như mức độ chính xác của hệ thống này. Theo thông tin từ phòng thí nghiệm trên, trong kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016-2020), Trung Quốc dự tính xây dựng một vùng ứng dụng UGPS bao trùm 250.000 km2 Biển Đông.
Trong khi đó, Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng cho biết, Trung Quốc được cho là đang lên kế hoạch thiết lập một căn cứ ở dưới đáy biển để phục vụ hoạt động quốc phòng và khoa học của tàu ngầm không người lái tại Biển Đông. Nơi đặt căn cứ dưới biển của Trung Quốc có thể nằm ở phần sâu nhất của đại dương (từ 6.000 – 11.000m). Các nhà khoa học ước tính dự án này sẽ tiêu tốn khoảng 1,1 tỷ Nhân dân tệ (160 triệu USD). Các tàu ngầm robot sẽ được triển khai để khảo sát đáy biển, ghi chép thông tin về các sinh vật sống dưới biển và thu thập các mẫu khoáng sản. Đóng vai trò như một phòng thí nghiệm độc lập, căn cứ dưới biển của Trung Quốc sẽ phân tích các mẫu do tàu ngầm thu được và gửi thông tin lên mặt nước.
Hệ thống giám sát đáy Biển Đông
Viện hải dương học thuộc Học viện Khoa học Trung Quốc (CAS) cho biết, Bắc Kinh đang triển khai hệ thống giám sát đáy biển được xây dựng trên nền tảng các phao nổi, tàu mặt nước, vệ tinh và thiết bị lặn dưới nước. Từ đó, hệ thống thu thập thông tin về Biển Đông, Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương rồi truyền về ba trung tâm tình báo nằm ở quần đảo Hoàng Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam nhưng bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép), tỉnh Quảng Đông và Tam Á (đảo Hải Nam). Trong đó, trung tâm ở Tam Á là cơ sở chung, chịu trách nhiệm xử lý và phân tích thông tin.
Tính đến thời điểm hiện tại, sau nhiều năm xây dựng và thử nghiệm, hệ thống giám sát đã được bàn giao cho hải quân Trung Quốc sử dụng. Dự kiến, đến năm 2020, Trung Quốc sẽ hoàn thiện mạng lưới giám sát hàng hải ba chiều toàn diện tại Biển Đông, Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Hệ thống giám sát đáy biển của Trung Quốc hoạt động dựa trên sự thu-phát sóng âm của mạng lưới cảm biển được Bắc Kinh rải khắp các vùng biển.
Viện Khoa học Trung Quốc cho biết, hệ thống trên có 3.800 cảm biến rải rác trên khắp thế giới. Các cảm biến có nhiệm vụ thu nhận và phân tích âm thanh ở vùng nước nông, rồi truyền phát hiện tín hiệu về các trạm thu nhận trong phạm vi 1.000 km. Theo thiết kế, cứ sau 5 ngày cảm biến của Trung Quốc sẽ tự động lặn xuống dưới 2 km để thu thập thông tin và nổi lên để truyền tín hiệu cho vệ tinh định hướng Bắc Đẩu. Trung Quốc đã đưa tổng cộng 20 cảm biến xuống Biển Đông, 300 cảm biển ra Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Để duy trì hoạt động liên tục của cảm biến này, Trung Quốc hàng năm sẽ đưa các cảm biến mới để thay thế cho những cảm biến cũ hết năng lượng.
Hệ thống trên được áp dụng các công nghệ mới và hiện đại nhất của Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, song chúng hoạt động mô phỏng theo hệ thống thiết bị cảm biến âm thanh của Mỹ dọc vành đai “Chuỗi đảo thứ nhất” và “Chuỗi đảo thứ hai” của Mỹ. Tuy nhiên, Trung Quốc mới chỉ nắm bắt được công nghệ bên ngoài, chưa thể sánh ngang được với các cường quốc như Mỹ, Nga. Theo ông Du Vĩnh Cường, nhà nghiên cứu của Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc, việc triển khai được một hệ thống công nghệ cao mới cho thấy sự tiến bộ trong khả năng tác chiến tàu ngầm của Bắc Kinh, nhưng Trung Quốc còn kém xa Mỹ về khả năng nắm bắt được tình trạng nhiệt độ và độ mặn của nước biển ở Biển Đông.
Hệ thống quan trắc dưới đáy biển
Từ năm 1996, Trung Quốc đã bắt đầu triển khai kế hoạch phát triển các công nghệ giám sát trên biển, trong đó trọng tâm là trinh sát, phát hiện và giám sát tàu ngầm. Đến năm 2005, Trung Quốc đã hoàn thiện quá trình xây dựng và thực hiện “Hệ thống tìm kiếm và đo đạc tổng hợp cáp quang dưới đáy biển”, thiết kế thành công mô hình giám sát 3 vùng biển với 3 trạm gốc đặt ở Hoàng Hải, Hoa Đông và Biển Đông.Tuy nhiên, do vùng biển Hoàng Hải ở ngoài khơi Thanh Đảo có mực nước nông, cấu tạo địa chất đáy biển tương đối bằng phẳng nên không thể kiểm nghiệm tối đa hiệu quả của hệ thống này. Đến tháng 4/2009, Viện nghiên cứu âm thanh thuộc Viện khoa học Trung Quốc thành lập “Trạm thực nghiệm âm thanh và quan trắc hải dương tổng hợp Nam Hải”, triển khai “Hệ thống phát hiện, đo đạc âm thanh dưới nước mạng lưới cáp quang ven bờ”. Năm 2010, Trung Quốc thành lập một mạng lưới trinh sát, giám sát trên không (vệ tinh trinh sát), trên biển (cảm biến âm thanh sonar) và trên đất liền (trạm tiếp nhận thông tin vệ tinh trên mặt đất) được liên kết bởi hệ thống cáp điện hay cáp quang. Tháng 7/2015, Trung Quốc rải 8 thiết bị thu âm thanh dưới nước thuộc hệ thống trinh sát, giám sát tàu ngầm dưới đáy biển. Những thiết bị trên hình trụ dài khoảng 2 m, nặng 30 kg; cứ 5 ngày, cảm biến sẽ tự động lặn xuống dưới 2 km để thu thập thông tin và nổi lên để truyền tín hiệu cho vệ tinh định hướng Bắc Đẩu. Các âm thanh thu được sẽ lọc và chuyển về trạm gốc chuyên phân tích số liệu, với cơ sở dữ liệu âm thanh của nhiều loại tàu ngầm khác nhau, tại các vùng biển khác nhau. Căn cứ vào thời gian và vị trí truyền tín hiệu về, các trạm này sẽ phân tích, so sánh mẫu và xác định nguồn âm thanh, vị trí và cự ly của chúng tới thiết bị cảm biến.Dữ liệu thu thập được từ những cảm biến này được gửi đến trung tâm tiếp nhận Bắc Đẩu ở thành phố Hàng Châu để xử lý rồi chia sẻ với hệ thống dữ liệu quốc tế. Tuy nhiên, hiện Chính phủ và quân đội Trung Quốc không có quyền tiếp cận ưu tiên vào hệ thống dữ liệu trên.
Hệ thống cảm biến giám sát từ xa
Hệ thống cảm biến này do Tập đoàn Công nghệ Điện tử Trung Quốc xây dựng, mới đây được ra mắt tại Triển lãm Hàng hải và Hàng không quốc tế Langkawi 2019 tại Malaysia. Theo Bộ Quốc phòng Trung Quốc, các cấu trúc mới gồm hai phiên bản: một hệ thống thông tin tích hợp nổi (IIFP) và một hệ thống thông tin tích hợp lớn hơn, mạnh hơn để lắp đặt trên các đảo hoặc bãi san hô (IRBIS). IIFP có thể đóng vai trò như một trạm liên lạc 4G hoặc sóng ngắn, một hệ thống cảnh báo sớm sóng thần và cung cấp dịch vụ hàng hải. Cấu trúc IRBIS lớn hơn cũng có chức năng tương tự, song chúng được trang bị nhiều cảm biến hơn và hoạt động mạnh hơn. Cả hai cấu trúc mới của Trung Quốc đều được thiết kế để vận hành tự động, cung cấp một loạt phương pháp để giám sát thời tiết, vùng biển và hoạt động của con người tại những khu vực nhất định. Chúng có trọng lượng nhẹ và có thể được triển khai tại những vùng nước nông nhờ sự hỗ trợ của tàu kéo hoặc các tàu tương tự.
Bộ Quốc phòng Trung Quốc cho biết cả hai phiên bản đều có thể hoạt động như những điểm nút trong mạng lưới cảm biến nhằm giúp nhận thức tình hình đa chiều, cung cấp dịch vụ thông tin và do thám. Những tính năng trên có thể được áp dụng trong các hoạt động bồi đắp và bảo vệ đảo, đồng thời phục vụ cho hoạt động nghiên cứu hải dương và dịch vụ công. Bộ Quốc phòng Trung Quốc lớn tiếng tuyên bố, mặc dù các cấu trúc mới có thể giám sát môi trường, theo dõi thời tiết và cảnh báo sớm sóng thần một cách hiệu quả, song chúng cũng có thể giúp “theo dõi liên tục một mục tiêu ngoài biển” và có thể đóng vai trò quan trọng trong “hoạt động xây dựng” trái phép của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, “bảo vệ các đảo và bãi san hô, đồng thời giám sát liên tục các vùng biển mục tiêu”. Bên cạnh khả năng phục vụ hiệu quả trong việc điều tra, giám sát thời tiết, môi trường, cảnh báo sớm các cơn sóng thần và hỗ trợ hàng hải, các thiết bị này có thể “giám sát liên tục một mục tiêu trên biển”, đóng vai trò quan trọng đối với “hoạt động xây dựng của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa, bảo vệ các đảo, đá và giám sát các vùng biển mục tiêu”.
Theo The Diplomat, công bố này của Bộ Quốc phòng Trung Quốc là sự khác biệt quan trọng so với những gì quan điểm chính thức của Trung Quốc thường đưa ra về việc không thừa nhận tính lưỡng dụng dân sự – quân sự rõ ràng của các cấu trúc nước này xây dựng ở Trường Sa, chưa kể việc lắp đặt công khai các thiết bị quân sự như boong-ke và thiết bị cảm biến tầm xa do Trung Quốc lắp đặt phi pháp tại vùng biển này. Sau khi được triển khai trên các đảo, các hệ thống cảm biến trước đây buộc phải chấp nhận giảm bớt tính chính xác và độ tin cậy để đổi lấy khả năng hoạt động tầm xa. Theo đó, các hệ thống cảm biến cũ ít phát huy tác dụng tại vùng nước gần các đảo và bãi san hô do chúng ưu tiên hoạt động tầm xa, trong khi Trung Quốc vẫn muốn giám sát sự hiện diện của các ngư dân và tàu chấp pháp tại các khu vực này. Chuyên gia Peter Dutton tại Trường Chiến tranh Hải quân Mỹ nhận định, ngay cả lực lượng tuần duyên và hạm đội tàu dân quân trên biển quy mô lớn của Trung Quốc cũng không đủ khả năng tuần tra toàn bộ Biển Đông. Do vậy, theo tính toán ngang ngược của Trung Quốc, để các đội tàu phát huy hiệu quả, các cấu trúc mới sẽ giúp cung cấp một bức tranh chính xác hơn về những nơi tập trung các ngư dân và tàu chấp pháp trong khu vực. Khi đó, Trung Quốc có thể ngang nhiên sử dụng những thông tin thu thập được từ hệ thống cảm biến mới để báo cho lực lượng tuần duyên và hạm đội dân quân của nước này trước khi có hành động can thiệp mà không cần mất công triển khai lực lượng tuần tra tại các vùng biển trống.
Âm mưu tăng cường kiểm soát Biển Đông
Thứ nhất, những hệ thống trên có khả năng thu thập thông tin về môi trường dưới nước, đặc biệt là nhiệt độ và độ mặn; khiến Bắc Kinh nắm bắt được sự thay đổi về môi trường sinh thái ở các vùng biển và đưa ra những chiến lược phát triển kinh tế biển phù hợp với đặc điểm từng vùng.
Thứ hai, hệ thống giám sát trên không, dưới nước cũng hỗ trợ hải quân, nhất là lực lượng tàu ngầm chiến lược và tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc trong việc định hướng, xác định mục tiêu và theo dõi tàu chiến của các nước khác. Theo thiết kế, các tàu ngầm thường dùng kỹ thuật lan truyền sóng âm thanh dưới nước (sonar) để xác định vị trí, nhận diện và theo dõi tàu khác. Tốc độ và hướng của sóng âm lại bị ảnh hưởng rất lớn bởi nhiệt độ và độ mặn của vùng nước tàu chạy qua, điều này sẽ khiến tàu ngầm Trung Quốc khó có thể tấn công chính xác các mục tiêu,
Thứ ba, hệ thống giám sát trên còn giúp Trung Quốc bảo vệ sáng kiến “Vành đai, Con đường”, trong đó bao gồm “Con đường Tơ lụa trên biển”, trải dài từ bán đảo Triều Tiên tới vùng biển Đông Phi, qua những khu vực Bắc Kinh chưa có kinh nghiệm hoạt động.
Thứ tư, Trung Quốc triển khai hệ thống vệ tinh giám sát ngày đêm ở Biển Đông chính là nhằm gia tăng sự kiểm soát trên vùng biển mà Bắc Kinh tuyên bố “chủ quyền” phi pháp trong khu vực. Hoạt động này dẫn đến việc Trung Quốc sẽ theo dõi, nắm được hoạt động hàng hải, hàng không hợp pháp của các nước liên quan, gây ra mối đe dọa sâu sắc đối với các hoạt động tự do hàng hải, hàng không trong khu vực. Ngoài ra, một hệ thống định vị toàn cầu độc lập cho phép Trung Quốc nâng cao khả năng kiểm soát, theo dõi tất cả các mục tiêu từ trên không, nâng cao năng lực phối hợp tác chiến, giành ưu thế trong mọi tình huống… Ngoài ra, các hệ thống vệ tinh sẽ cho phép quân đội Trung Quốc theo dõi, trinh sát, thông tin liên lạc và chuyển tiếp số liệu cho các hoạt động theo dõi và phát hiện mục tiêu trên biển. Thu thập thành công hình ảnh trung thực và độ phân giải cao, xác định mục tiêu và định vị của vệ tinh sẽ tạo thuận lợi cho quân đội Trung Quốc ngăn chặn tàu thuyền các nước bằng các loại tên lửa đạn đạo có điều khiển chính xác và tên lửa hạt nhân tầm thấp. Theo Phó Đô đốc David Dorsett, Phó Tư lệnh phụ trách Các Hoạt động của Hải quân Mỹ: “Cách đây 10 năm, Trung Quốc chưa có rađa phát hiện mục tiêu ngoài chân trời và chưa có IRS (tình báo, giám sát và do thám). Các vệ tinh là đường kết nối quan trọng trong cơ cấu ISR mà quân đội Trung Quốc rất cần để phát hiện, theo dõi và tiến công các tàu nổi nước ngoài trong khu vực biển tranh chấp. Hiện nay Trung Quốc vận hành khá nhiều vệ tinh, từ đó có thể cung cấp các số liệu quan trọng về mục tiêu trong khu vực Biển Đông.
Không những vậy, một khi được hoàn thiện, những hệ thống này sẽ giúp gia tăng đáng kể năng lực kiểm soát trên thực địa của Trung Quốc tại các khu vực tranh chấp; đe dọa đến hoạt động tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông; góp phần gia tăng cơ sở vật chất – kỹ thuật để khẳng định “chủ quyền” phi pháp trong khu vực; đẩy mạnh khả năng thăm dò, khai thác tài nguyên, khoáng sản ở Biển Đông để phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế trong nước. Ngoài ra, việc triển khai hệ thống giám sát ngầm dưới biển còn khiến Trung Quốc nắm bắt, kiểm soát tàu thuyền hoạt động ở Biển Đông.
Vi phạm luật pháp quốc tế và xâm phạm chủ quyền của Việt Nam
Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi hoạt động của các nước trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bao gồm các hoạt động trên mặt biển, trên vùng trời, hay dưới đáy đại dương mà chưa được phép của Việt Nam là vi phạm chủ quyền hợp pháp của Việt Nam, đồng thời đe dọa trực tiếp đến các đảo và thực thể hợp pháp của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Không những vậy, việc sử dụng các thiết bị vệ tinh do thám như vậy gây ra mối đe dọa đến an ninh và chủ quyền lãnh thổ của các nước trong khu vực Biển Đông. Không những vậy, hành động của Trung Quốc còn vi phạm các quy định luật pháp quốc tế liên quan. Việc Trung Quốc triển khai trái phép những hệ thống trên ở khu vực Biển Đông mà chưa được Việt Nam đồng ý là vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông. Hành động trên cũng đi ngược lại Tuyên bố chung của lãnh đạo hai nước Việt Nam – Trung Quốc về việc hạn chế các hành vi gia tăng căng thẳng ở Biển Đông.
Nhìn chung, Bắc Kinh triển khai hệ thống giám sát phi pháp ở Biển Đông là để tăng cường quyền kiểm soát trong khu vực, ngăn chặn Mỹ và các nước can thiệp vào vấn đề Biển Đông. Hành động của Trung Quốc không chỉ đe dọa hòa bình, ổn định trong khu vực Biển Đông mà còn vi phạm luật pháp quốc tế liên quan. Trước tình hình trên, các nước liên quan, nhất là Mỹ cần theo dõi chặt chẽ những hoạt động phi pháp của Trung Quốc để đưa ra phương án xử lý hiệu quả nhất.