Tại buổi tiếp Thư ký Hội đồng An ninh Liên bang Nga N.P. Patrushev tại thủ đô Bắc Kinh, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (2/12) đã nêu đích danh Mỹ và các quốc gia phương Tây can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc và Nga, đồng thời cho rằng, hành động này đe dọa tới chủ quyền an ninh của hai nước.
Trung – Nga hợp tác chống Mỹ
Theo đó, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhấn mạnh, từ đầu năm đến nay, việc Mỹ và các quốc gia phương Tây gia tăng can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc và Nga, đã đe dọa chủ quyền an ninh của hai quốc gia và cản trở sự phát triển kinh tế xã hội của hai nước; cho rằng Trung Quốc và Nga cần tiếp tục tận dụng hai cơ chế tham vấn an ninh chiến lược và hợp tác an ninh chấp pháp, tăng cường trao đổi về an ninh chiến lược, thúc đẩy tin cậy chiến lược, để bảo vệ lợi ích cốt lõi của mỗi nước và an ninh chung của cả hai quốc gia; khẳng định trước những thay đổi phức tạp của tình hình quốc tế, Trung Quốc và Nga càng cần gắn kết chặt chẽ, trở thành những đối tác chiến lược đáng tin cậy và chân thành của nhau với những ủng hộ mạnh mẽ kiên định mang tính chiến lược.
Trong khi đó, Thư ký Hội đồng An ninh Liên bang Nga Patrushev cho biết, hàng loạt các chính sách của Mỹ hiện nay không chỉ gây tổn hại cho lợi ích của Nga và Trung Quốc, mà còn ảnh hưởng tiêu cực tới hệ thống và trật tự quốc tế; tái khẳng định “quan hệ hai nước là không gì có thể phá vỡ”, hai bên có cùng quan điểm trong nhiều vấn đề quốc tế lớn, do vậy cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ, bảo vệ chủ quyền và an ninh của mỗi nước, cũng như ổn định chiến lược quốc tế, thúc đẩy đa cực hóa và dân chủ hóa quan hệ quốc tế, bảo vệ luật pháp quốc tế và trật tự quốc tế công bằng.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc và Nga đã, đang thúc đẩy hợp tác toàn diện trong nhiều lĩnh vực. Nhất là kể từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng ở Ucraine năm 2014, quan hệ giữa hai nước ngày càng phát triển, chủ yếu xoay quanh các hoạt động buôn bán thiết bị quân sự, Nga bán dầu mỏ cho Trung Quốc và Bắc Kinh rót vốn vào Nga trong bối cảnh lệnh trừng phạt của phương Tây. Việc hai nước thúc đẩy hợp tác quân sự lần đầu tiên được đề cập trong một chương riêng của Sách trắng “Quốc phòng Trung Quốc trong kỷ nguyên mới”. Sách Trắng đã phân tích cụ thể về mối quan hệ đối tác an ninh kiểu mới, với mối quan hệ Trung – Nga. Sách Trắng làm rõ mối quan hệ giữa hai quân đội Trung Quốc và Nga tiếp tục duy trì ở mức độ cao, đang làm phong phú thêm nội hàm mới cho quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước trong kỷ nguyên mới và có ý nghĩa lớn trong việc duy trì sự ổn định chiến lược toàn cầu. Tại cuộc họp báo về công bố Sách trắng, Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc, Đại tá Ngô Khiêm xác nhận không quân Trung Quốc và Nga đã tổ chức chuyến tuần tra chiến lược chung trên không đầu tiên ở Đông Bắc Á. Bộ Quốc phòng Nga thông báo hai nước đã cử bốn máy bay ném bom chiến lược, được hỗ trợ bởi máy bay cảnh báo sớm, để tuần tra theo hành trình dọc theo biển Nhật Bản và biển Hoa Đông. Về việc Trung Quốc và Nga trong tương lai có tiếp tục tổ chức các hoạt động tuần tra chiến lược chung như thế hay không, Ngô Khiêm nói từ nay về sau. Quân đội Trung Quốc và Nga sẽ đàm phán và xác định các dự án hợp tác có tính thực tế khác nhau; nhấn mạnh với việc quan hệ Trung – Nga bước sang một kỷ nguyên mới, quan hệ quân sự Trung – Nga cũng bước sang một kỷ nguyên mới. Dưới sự dẫn dắt chiến lược của hai nguyên thủ quốc gia, quân đội Trung Quốc và Nga sẽ thúc đẩy quan hệ quân sự Trung – Nga tới tầm cao lịch sử mới. Hai bên sẽ đẩy mạnh hỗ trợ lẫn nhau vì lợi ích cốt lõi của nhau, hoàn thiện cơ chế trao đổi và hợp tác ở các cấp và trong các lĩnh vực. Hợp tác sâu rộng trong trao đổi cấp cao, hợp tác chiến lược, huấn luyện thực chiến, phát triển trang bị kỹ thuật và chống khủng bố. Tiếp tục cung cấp năng lượng tích cực để giữ gìn hòa bình thế giới và ổn định chiến lược toàn cầu
Tuy hai nước cam kết tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, nhưng quan hệ Trung Quốc và Nga vẫn còn điểm yếu quan trọng trong lĩnh vực hợp tác kinh tế. Hiện Trung Quốc đã trở thành một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Nga. Năm 2018, kim ngạch thương mại song phương đã tăng 27% so với năm 2017, và tiếp tục tăng trong năm 2019. Cụ thể, số liệu thương mại trong quý I năm nay giữa hai nước đã tăng hơn 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, những phát biểu trên đang ẩn chứa một bức tranh phức tạp. Phần lớn tăng trưởng thương mại năm 2018 chỉ tập trung vào xuất khẩu năng lượng của Nga, trong khi vốn đầu tư của Trung Quốc vào Nga đã giảm xuống. Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2017, Nga là đối tác thương mại lớn thứ 10 của Trung Quốc. Vị trí của nước này xếp sau không chỉ các nước láng giềng của Trung Quốc như Việt Nam, Malaysia, Ấn Độ, mà còn đứng sau cả những đối tác thương mại có vị trí địa lý xa hơn như Brazil, Đức. Ngoài ra Nga chỉ chiếm dưới 2% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc trong năm 2017 và chỉ hơn 2% tổng kim ngạch nhập khẩu. Nếu so với Mỹ, sự chênh lệch này rất lớn khi Washington chiếm tới 19% tổng kim ngạch xuất khẩu và 8% kim ngạch nhập khẩu của Bắc Kinh. Rõ ràng, mối quan hệ kinh tế giữa hai nước còn một chặng đường dài để đi.
Quan hệ Mỹ – Trung Quốc đang căng thẳng
là mối quan hệ tương đối phức tạp, được thế giới đặc biệt quan tâm. Theo các chuyên gia phân tích chiến lược, thời gian tới, khả năng lớn nhất của mối quan hệ này sẽ là vừa hợp tác, vừa cạnh tranh; trong đó, yếu tố cạnh tranh vượt trội hơn và có thể xuất hiện cục diện đối đầu. Nếu tình huống này xảy ra thì sự đối đầu sẽ diễn ra tương đối dài, phạm vi rộng, mọi lĩnh vực và không loại trừ khả năng “xung đột” ở phạm vi, quy mô nhỏ trong một số vấn đề, như: tự do hàng hải trên Biển Đông, vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên và vấn đề Đài Loan…
Với tư cách là hai nền kinh tế lớn nhất, nhì thế giới, cũng là hai cường quốc hạt nhân, Mỹ và Trung Quốc đều thận trọng khi áp dụng các biện pháp quản lý, ngăn ngừa khủng khoảng và kiềm chế không để xảy ra xung đột. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là hai bên đều coi nhau như kẻ thù, bởi theo Mỹ, “đối thủ cạnh tranh không có nghĩa là kẻ thù”. Mối quan hệ này vừa có tính cạnh tranh, vừa có khả năng hợp tác song phương, thể hiện qua việc hai bên đều muốn duy trì “sự ổn định tương đối” trên các lĩnh vực: chính trị, ngoại giao, an ninh, v.v. Việc duy trì cục diện ổn định chiến lược đều có lợi cho cả hai, nếu xảy ra xung đột quân sự thì cả hai đều hứng chịu những tổn thất vô cùng lớn, hơn cả những gì đang diễn ra trong cuộc chiến thương mại.
Hiện nay, các chính sách của Mỹ thực hiện đối với Trung Quốc nhằm vào lĩnh vực kinh tế thương mại, ngoại giao chính trị và chiến lược quân sự. Mỹ muốn nền kinh tế Trung Quốc là nền kinh tế thị trường, chính phủ không nắm quyền chỉ đạo các doanh nghiệp; nền kinh tế Mỹ không bị Trung Quốc lợi dụng và Mỹ không mất vị trí chỉ đạo, thao túng thế giới trên lĩnh vực công nghệ cao. Trong khi cuộc chiến thương mại chưa có dấu hiệu hạ nhiệt thì Mỹ chủ động nâng cấp quan hệ với Đài Loan nhằm mục đích sử dụng Đài Loan như một “con bài” chiến lược để kiềm chế Trung Quốc. Ngoài ra, việc triển khai chiến lược “xoay trục” – quay trở lại châu Á – Thái Bình Dương – được thể hiện trực tiếp qua sự điều chỉnh lực lượng quân sự giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Sự hiện diện quân Mỹ tại Nhật Bản, Hàn Quốc, nhất là việc tuần tra hàng hải trên Biển Đông, thể hiện rõ quyết tâm của Mỹ là muốn nắm quyền chủ đạo ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Các hoạt động của Mỹ được Trung Quốc xem như là động thái gây sức ép trực tiếp, thể hiện sự leo thang quân sự của Mỹ trong khu vực. Để đối phó với các hành động đó, Trung Quốc cũng có các hoạt động tương xứng.
Quan hệ Nga – Mỹ
Từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc đến nay, quan hệ Nga – Mỹ mặc dù vẫn có mặt hợp tác, nhưng sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa hai cường quốc này chưa bao giờ dừng lại, nhất là nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống V. Pu-tin đã dần lấy lại vị thế cường quốc. Trong 05 năm trở lại đây, mức độ hợp tác Nga – Mỹ không những không tiến triển mà còn bị thu hẹp. Nhiều nhà nghiên cứu quốc tế và cả các chính khách của hai nước đều nhận định: quan hệ Nga – Mỹ “đang ở mức thấp nhất kể từ sau Chiến tranh Lạnh”. Biểu hiện rõ nhất của sự suy giảm mức độ hợp tác song phương là việc hai nước đã cắt giảm quy mô cơ quan đại diện và nhân viên ngoại giao của mình tại nước kia, cũng như giảm số đại diện của mình trong các tổ chức quốc tế mà hai bên đóng vai trò chủ chốt. Trên hầu hết các lĩnh vực, cả Nga và Mỹ đều coi nhau như đối thủ cạnh tranh hơn là đối tác; sự mở rộng ảnh hưởng của nước này sẽ thu hẹp lợi ích của nước kia và ngược lại. Đối đầu trực diện quân sự ít có khả năng xảy ra, bởi hai bên đều hiểu rõ cái giá phải trả. Hiện nay, cả Mỹ và Nga đã rút khỏi “Hiệp ước các Lực lượng hạt nhân tầm trung (INF)”, có thể dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang mới giữa hai cường quốc.
Sự tác động từ mối quan hệ giữa ba nước đến an ninh khu vực
Với đặc điểm môi trường quốc tế nhiều biến động, các nước lớn đều điều chỉnh chiến lược để thích ứng với hoàn cảnh, tìm kiếm lợi ích cho mình và đồng minh. Vì vậy, theo các chuyên gia, việc dự báo xu thế vận động của mối quan hệ Mỹ – Nga – Trung Quốc, nhất là các cặp quan hệ song phương là không đơn giản. Bởi, mối quan hệ này tạo nhiều cơ hội, song cũng tiềm ẩn không ít khó khăn, thách thức đối với thế giới nói chung, khu vực nói riêng. Cơ hội và thách thức đan xen, tác động qua lại, nên các nước cần phải tranh thủ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, tạo thế và lực mới để phát triển.
Đông Nam Á nằm ở trung tâm châu Á – Thái Bình Dương, cửa ngõ giao thương, liên kết giữa các nền kinh tế, nhất là các nền kinh tế lớn trong khu vực. Vì thế, khi điều chỉnh chiến lược, các nước lớn đều coi trọng khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là trọng tâm. Đây là cơ hội để các nước ASEAN nói chung, Việt Nam nói riêng tận dụng thời cơ để lựa chọn đối tác quan hệ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Theo đó, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với các nước lớn, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, an ninh Tổ quốc.
Đối với khu vực Biển Đông, Mỹ khẳng định nguyên tắc bảo đảm tự do hàng hải, hàng không, duy trì trật tự pháp lý và không ngần ngại theo dõi “nhất cử, nhất động” của Trung Quốc. Bên cạnh đó, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ và một số nước khác có thể can dự mạnh hơn thông qua việc giúp đỡ, tài trợ và tăng cường năng lực cạnh tranh cho một số nước có tranh chấp chủ quyền biển, đảo. Trung Quốc thì liên tục gia tăng các tiềm lực an ninh, quân sự trên Biển Đông thông qua việc quân sự hóa các điểm, đảo; đồng thời, chủ động lôi kéo, ve vãn các nước có tranh chấp chủ quyền biển, đảo, củng cố mối quan hệ với các nước láng giềng,… làm tình hình an ninh khu vực diễn biến hết sức phức tạp, khó lường.