Việt Nam là một trong các bên liên quan trực tiếp tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Tuy là nước duy nhất có đầy đủ chứng cứ pháp lý, căn cứ lịch sử khẳng định chủ quyền hợp pháp ở vùng biển này, nhưng Việt Nam đang bị một số nước xâm chiếm nhiều đảo, đá ở Hoàng Sa và Trường Sa. Để giải quyết tranh chấp, Việt Nam đang thực hiện tổng hợp nhiều biện pháp nhằm bảo vệ chủ quyền và tìm kiếm các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp với các nước liên quan.
Chủ trương nhất quản của Việt Nam
Đối với các bất đồng, tranh chấp trên Biển Đông, chủ trương nhất quán của Việt Nam là: Không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết mâu thuẫn thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS, DOC, nhằm sớm tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển. Việt Nam cũng hoan nghênh nỗ lực và đóng góp của tất cả các nước trong và ngoài khu vực vào việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông; đánh giá cao việc cộng đồng quốc tế có những đóng góp xây dựng nhằm bảo vệ an ninh, an toàn hàng hải và duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực Biển Đông. Đối với các vấn đề liên quan đến hai nước Việt Nam – Trung Quốc (ở quần đảo Hoàng Sa) thì giải quyết song phương, vấn đề nào liên quan đến các bên khác (ở quần đảo Trường Sa), liên quan đến tự do hàng hải thì cần có sự bàn bạc của tất cả các bên liên quan. Nếu các bên không giải quyết được bằng cơ chế đàm phán thì cần phải giải quyết bằng các phương thức khác như trung gian, hòa giải hoặc bằng các cơ chế tài phán quốc tế như Tòa ICJ, Tòa ITLOS và các tòa trọng tài.
Việt Nam triển khai tổng hòa các biện pháp
Ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là thông qua các kênh ngoại giao và chính trị để giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế và đảm bảo lợi ích của tất cả các bên liên quan. Đây có thể được coi là biện pháp hữu hiệu và thiết thực nhất để giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, song biện pháp này đang rơi vào thế bế tắc do các bên liên quan tranh chấp đều khẳng định vấn đề chủ quyền lãnh thổ là bất khả xâm phạm và không thể nhượng bộ. Vì vậy, tất cả các nước có tranh chấp cần có ý trí chính trị, tinh thần thượng tôn pháp luật và nhìn nhận một cách khách quan về yêu sách chủ quyền ở Biển Đông để tiến hành đàm phán (song phương hoặc đa phương nếu liên quan các vấn đề đa phương) giải quyết tranh chấp. Việc sử dụng biện pháp đàm phán sẽ làm sáng tỏ những bất đồng, là cơ hội, điều kiện thuận lợi nhất để các bên tranh chấp bày tỏ quan điểm, lập trường, yêu sách của mình về vấn đề tranh chấp và cùng nhau thương lượng, nhượng bộ để giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, Việt Nam đã, đang triển khai hiệu quả tuyên truyền vấn đề chủ quyền, giúp cộng đồng quốc tế hiểu rõ bản chất tranh chấp ở Biển Đông và đưa ra các biện pháp hỗ trợ về tinh thần, pháp lý cho Việt Nam khi tìm cách giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông. Lãnh đạo nhiều nước, các tổ chức quốc tế, khu vực cũng như chuyên gia, học giả quốc tế đã lên tiếng bảo vệ Việt Nam, cho rằng Việt Nam có ưu thế về mặt pháp lý, chứng cứ lịch sử và quản lý liên tục một cách hòa bình ở Biển Đông. Thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa các biện pháp tuyên truyền chủ quyền biển đảo, giúp nhân dân thế giới hiểu rõ hơn về chủ trương, chính sách cũng như quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam một cách hòa bình, thượng tôn pháp luật.
Thứ ba, Việt Nam cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật biển, làm cơ sở cho việc xác lập chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia; triển khai chặt chẽ việc phân vùng, bố trí dân cư ven biển với tổ chức các lực lượng bảo vệ chủ quyền biển đảo; ban hành chính sách khuyến khích mạnh mẽ nhân dân định cư sinh sống ổn định lâu dài trên đảo và làm ăn trên biển dài ngày. Các địa phương có biển, đảo cần có chủ trương, giải pháp, kế hoạch phù hợp, nhằm tăng cường nghĩa vụ, trách nhiệm của các doanh nghiệp và nhân dân trong quản lý bảo vệ, khai thác các lợi ích từ biển. Trên cơ sở các văn bản pháp lý công bố rộng rãi trong nước và quốc tế, cần kiên trì đấu tranh ngoại giao, đàm phán với các nước láng giềng, các nước có tranh chấp thềm lục địa, vùng chồng lấn, phân chia vùng biển lịch sử và đảo; xây dựng vùng biển hòa bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển.
Thứ tư, nếu các biện pháp chính trị, ngoại giao không giải quyết được tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và Trung Quốc tiếp tục có các hành động xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông, Việt Nam cũng không loại trừ khả năng sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết tranh chấp với các bên liên quan. Việt Nam cần chủ động nghiên cứu, chuẩn bị hồ sơ pháp lý để có thể vận dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp bằng tài phán, nhất là thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS. Tuy Trung Quốc đã bảo lưu Điều 298 của UNCLOS, song vẫn có những cửa rất hẹp để Việt Nam có thể vận dụng để kiện Trung Quốc. Đặc biệt, việc Tòa trọng tài đang giải quyết vụ Philipines kiện Trung Quốc khẳng định có thẩm quyền giải quyết vụ kiện và dự kiến sẽ ra một phán quyết công bằng, khách quan có lợi cho Philipines, bác bỏ các yêu sách vô lý và phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông, thì Việt Nam có thể sử dụng thủ tục này trong trường hợp cần thiết. Với các tranh chấp liên quan giải thích và áp dụng UNCLOS hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc như: tranh chấp liên quan đến tuyên bố của Trung Quốc về “đường chữ 9 đoạn”; tranh chấp liên quan đến sự kiện Trung Quốc sử dụng các tàu cá giả dạng để cắt cáp tàu Bình Minh – 02, tàu Viking 2; hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 và đưanhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 vào hoạt động trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; tranh chấp liên quan đến hành vi sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trên Biển Đông của Trung Quốc trong thời gian gần đây; Trung Quốc đã tiến hành bồi đắp, xây dựng phi pháp với quy mô rất lớn trên 7 bãi đá ở quần đảo Trường Sa (Gạc Ma, Châu Viên, Chữ Thập, Gaven, Tư Nghĩa, Xu Bi, Vành Khăn) mà Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm đóng từ năm 1988 đến nay (bãi Vành Khăn Trung Quốc chiếm từ năm 1995), Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý để khởi kiện Trung Quốc theo thủ tục trọng tài quốc tế về luật biển, vì: (i) Trung Quốc sử dụng vũ lực xâm chiếm phi pháp các đảo, đá của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, hành động này đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Ngoài ra, tuy Trung Quốc đang cố tình né tránh, không thừa nhận có tranh chấp và luôn cho rằng, họ đang thực hiện các “quyền đương nhiên”, “lợi ích cốt lõi” của họ trên Biển Đông thì thực tế hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn đang tồn tại tranh chấp liên quan đến việc Trung Quốc đã giải thích và áp dụng sai UNCLOS. (ii) Việt Nam đã tích cực sử dụng các biện pháp chính trị – ngoại giao để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc nhưng Trung Quốc không hợp tác, tranh chấp không được giải quyết. Theo quy định về giải quyết tranh chấp trong UNCLOS, đặc biệt vận dụng Điều 281[1], từ khi phát sinh các tranh chấp, Việt Nam đã tiến hành đàm phán, trao đổi quan điểm với Trung Quốc nhưng Trung Quốc vẫn không thiện chí để giải quyết và cũng không có bất kỳ thoả thuận nào với Việt Nam, khiến tranh chấp không được giải quyết và ngày càng căng thẳng, phức tạp. Đây chính là căn cứ quan trọng để Việt Nam sử dụng biện pháp tài phán theo quy định tại Điều 287 của UNCLOS. (iii) Việt Nam và Trung Quốc chưa ký kết bất cứ Hiệp định, Điều ước, Tuyên bố song phương hoặc đa phương nào về nghĩa vụ phải giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình (bao gồm cả song phương và đa phương), không được sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế. Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam và Trung Quốc không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ giải quyết tranh chấp cụ thể nào từ các hiệp định chung, hiệp định khu vực hay hai bên nào theo Điều 282 của UNCLOS. Việt Nam và Trung Quốc chỉ tham gia ký kết, là một bên liên quan trong một số Hiệp định, Thỏa thuận có quy định về việc giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế như DOC, TAC, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1993 và Thỏa thuận về nguyên tắc 6 điểm giải quyết các vấn đề trên biển năm 2011. (iv) Việt Nam và Trung Quốc đều chưa có tuyên bố nào về lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp liên quan đến giải thích hay áp dụng UNCLOS theo quy định tại khoản 1 Điều 287. Do vậy, chiếu theo khoản 3 Điều 287 thì Việt Nam và Trung Quốc mặc nhiên đã chọn Tòa trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS để giải quyết tranh chấp về giải thích và áp dụng UNCLOS. (v) Giống như Philippines kiện Trung Quốc, các nội dụng và phạm vi khởi kiện của Việt Nam chỉ mang tính chất giải thích và áp dụng UNCLOS về thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, về nghiên cứu khoa học biển và đánh bắt hải sản, không nằm trong phạm vi quy định của Điều 298 UNCLOS mà Trung Quốc đã tuyên bố bảo lưu.
Thứ năm, nếu các biện pháp hòa bình trên không đạt được kết quả, Việt Nam cũng không thể khoanh tay đứng nhìn nước nào đó chiếm chọn Biển Đông, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc. Tuy đây là biện pháp cuối cùng và nó cũng là cách mà không người Việt Nam nào mong muốn, song để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam cũng không loại trừ khả năng sử dụng các biện pháp vũ trang để tự vệ, chống lại các hành động xâm phạm chủ quyền đã được luật pháp quốc tế và đông đảo cộng đồng quốc tế thừa nhận và ủng hộ. Hành động của Việt Nam chỉ mang tính chất tự vệ, không nhằm mục đích sử dụng vũ lực để xâm chiếm lãnh thổ của các nước khác. Điều này đã được khẳng định và thể hiện rõ nét trong chính sách quốc phòng của Việt Nam thời gian qua. Theo đó, tính chất nhất quán của quốc phòng Việt Nam là: Tự vệ, chính nghĩa, quốc phòng hòa bình, dựa vào sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng để thực hiện yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biển, đảo, là chỗ dựa vững chắc cho các hoạt động phát triển kinh tế biển trong thời bình, đồng thời đáp ứng nhiệm vụ tác chiến trên biển trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, Việt Nam cần chủ động chuẩn bị các phương án tác chiến, xây dựng các công trình phòng thủ; kết hợp chặt chẽ thế trận của các đảo, cụm đảo với thế trận của lực lượng cơ động trên biển, thế trận ven biển, thế trận phòng không-không quân… góp phần răn đe, ngăn ngừa xảy ra xung đột vũ trang và chiến tranh. Khi xảy ra xung đột, cần bình tĩnh kiềm chế, kiên trì đấu tranh; đồng thời, triển khai lực lượng và các hoạt động trên biển, tạo thế hỗ trợ, phối hợp với đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý…, không để đối phương lợi dụng tạo cớ, gây xung đột vũ trang và chiến tranh đánh chiếm biển, đảo của Việt Nam. Trường hợp buộc phải đấu tranh vũ trang, cần hành động kiên quyết, nhanh, mạnh, gọn, kết hợp với các mặt đấu tranh khác không để xung đột lan rộng, kéo dài, mở rộng thành chiến tranh.
Nhìn chung, chủ trương, chính sách của Việt Nam về giải quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông là phù hợp với quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và các quy định quốc tế phổ quát khác. Tuy nhiên, chỉ mình Việt Nam thì không thể giải quyết được tranh chấp phức tạp ở Biển Đông. Trung Quốc – nước đang sử dụng sức mạnh “cơ bắp” để xâm chiếm và thôn tính Biển Đông cần nghiêm tục thực thi các quy định luật pháp quốc tế, phối hợp với các bên liên quan giải quyết hòa bình tranh chấp trên Biển Đông dựa trên luật pháp, chấm dứt sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực ở Biển Đông.
[1]Điều 281 đã quy định, “1. Khi các quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng UNCLOS đã thỏa thuận tìm cách giải quyết tranh chấp này bằng một phương pháp hòa bình theo sự lựa chọn của mình, thì các thủ tục được trù định trong phần này chỉ được áp dụng nếu không đạt được một cách giải quyết bằng phương pháp này và nếu sự thỏa thuận giữa các bên không loại trừ khả năng tiến hành một thủ tục khác. 2. Nếu các bên cùng thỏa thuận về một thời hạn, thì khoản 1 chỉ được áp dụng kể từ khi kết thúc thời hạn này”