Sunday, November 24, 2024
Trang chủGóc nhìn mớiTƯ DUY LẠ CỦA MỘT QUAN CHỨC NGOẠI GIAO TRUNG QUỐC...

TƯ DUY LẠ CỦA MỘT QUAN CHỨC NGOẠI GIAO TRUNG QUỐC VỀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG

Chiều ngày 6 tháng 1 năm 2012, Mạng Tin tức Trung Quốc (Chinanews.com) đã tổ chức buổi giao lưu trực tuyến giữa ông Dị Tiên Lương, Phó Vụ trưởng Vụ Biên giới và Biển, Bộ Ngoại giao Trung Quốc và cư dân mạng với chủ đề “Kiên trì quan điểm hợp tác cùng thắng, xử lý thỏa đáng tranh chấp biển xung quanh”.

Trong buổi giao lưu trực tuyến này, ông Lương không chỉ phát biểu với cư dân mạng Trung Quốc mà còn muốn qua đó tuyên truyền cho dư luận Trung Quốc và dư luận thế giới về ba vấn đề chủ chốt: khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc đối với vùng biển nằm trong “đường đứt khúc”; và bày tỏ thiện chí hòa bình của Trung Quốc trong việc giải quyết các tranh chấp ở biển Đông.

Trong nội dung giao lưu của mình, ông Lương đã cố ý đánh lộn con đen, bóp méo lịch sử, xuyên tạc sự thật nhằm thuyết giáo cho cái gọi là “hợp tác cùng thắng” theo kiểu Trung Quốc. Vì vậy, chúng ta cần làm sáng tỏ những điều mà ông Lương luận bàn để dư luận Trung Quốc và dư luận thế giới hiểu đâu là sự thật về các vấn đề biển Đông.

 

1. Về cái gọi là “chủ quyền lâu đời” của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa)

Để thuyết phục dư luận là Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý chứng minh chủ quyền lâu đời của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ông Lương khẳng định:

– Một là, người Trung Quốc phát hiện và đặt tên sớm nhất cho bốn quần đảo ở “Nam Hải”, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngư dân Trung Quốc hoạt động sản xuất kinh doanh ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sớm nhất. Chính phủ Trung Quốc thực thi chủ quyền và quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sớm nhất và liên tục. Điều này được chứng minh bởi các văn kiện và bản đồ chính thức của Trung Quốc qua các thời kỳ.

– Hai là, “sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Trung Quốc đã thu hồi quần đảo Tây Sa và Nam Sa từ tay quân Nhật”.

– Ba là, “năm 1958 Thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã gửi công hàm tới Thủ tướng Chu Ân Lai thừa nhận rõ ràng rằng, Trung Quốc có chủ quyền đối với các đảo ở Nam Hải trong đó gồm hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa. Phía Trung Quốc đã nhiều lần yêu cầu phía Việt Nam tuân thủ cam kết”.

Phân tích kỹ những lời phát biểu của ông Lương về chủ quyền lâu đời của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì người ta có thể thấy rằng những luận điểm mà ông nêu ra không có gì mới. Ông chỉ nhắc lại những luận điểm được nêu trong Sách trắng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 30 tháng 1 năm 1980 (gọi tắt là Sách trắng Trung Quốc) và cuốn Tổng hợp sử liệu các đảo Nam Hải nước ta (gọi tắt là cuốn Tổng hợp sử liệu) do Hàn Chấn Hoa chủ biên và được ấn hành năm 1988.[1] Ông không đưa ra bất kỳ một chứng cứ khả dĩ nào có thể biện hộ cho những luận điểm chứng minh “chủ quyền lâu đời” của mình. Hay là ông Lương cho rằng cái gọi là những chứng cứ lịch sử và pháp lý được nêu trong các tài liệu nói trên là quá xác đáng, không cần bàn cãi, và vì vậy, việc Trung Quốc có chủ quyền lâu đời đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một lẽ đương nhiên ?

Vậy chúng ta hãy xem Sách trắng Trung Quốc và cuốn Tổng hợp sử liệu đưa ra được những chứng cứ lịch sử và pháp lý nào ? Từ các mô tả mơ hồ và không chính xác về địa lý và hàng hải trong các tài liệu của các cá nhân, các tác giả Sách trắng Trung Quốc và cuốn Tổng hợp sử liệu suy diễn một cách hết sức chủ quan để rút ra kết luận là Trung Quốc đã phát hiện sớm nhất hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa. Chỉ từ các cụm từ như “từ thạch” và “các đảo đá san hô, với nền là đá tảng, san hô mọc trên”, các tác giả Sách trắng Trung Quốc và cuốn Tổng hợp sử liệu coi đó là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sách “Nam Duệ di vật chí” viết thế kỷ thứ nhất chỉ nói đến việc ngư dân Trung Quốc “bắt được rùa và đồi mồi”, sách “Hoàng Châu ký” chỉ nói “người xưa bắt cá trong biển được san hô” nhưng được suy diễn thành người Trung Quốc đã “khai phá và kinh doanh sớm nhất” các đảo Nam Hải (Biển Đông).

Trong Sách trắng Trung Quốc và cuốn Tổng hợp sử liệu, các sách “Dị vật chí” (nói về những điều lạ của các xứ nước ngoài), “Lĩnh ngoại đại đáp” (ghi chú về nước ngoài) của Triệu Nhữ Quát, “Hải quốc văn kiến lục” (các điều tai nghe mắt thấy về các nước hải ngoại), của Vương Bính Nam, “Hải quốc đồ chí” (ghi chép về các nước ngoài và về hàng hải) của Nguỵ Nguyên), “Doanh hoàn chí lược” (tổng quan về địa lý hoàn cầu) của Bành Ôn Chương, “Hải ngữ” của Hoàng Trung là các tác phẩm rõ ràng là viết về các chuyến đi, nghiên cứu về hàng hải và địa lý liên quan đến các nước bên ngoài Trung Quốc trong khoảng thời gian từ đời Hán Đế đến đầu thế kỷ 20 (khoảng từ 25-1909). Nhưng, chỉ bằng một thủ thuật đơn giản là cắt xén các đoạn nói về vùng biển của nước ngoài, các tác giả Sách trắng và cuốn Tổng hợp sử liệu hồn nhiên kết luận là các đảo, đá nói trong các tài liệu nói trên là các quần đảo Tây Sa và Nam Sa của Trung Quốc, nằm trong vùng biển của Trung Quốc.

Chuyến đi của hải quân nhà Tống sang Ấn Độ Dương, việc phái thuyền binh ra phòng ngự cướp biển ở ven bờ đảo Hải Nam của Vương Tá đời Minh, cuộc tuần tra ven bờ của đảo Hải Nam của phó tướng Ngô Thăng đời Thanh được suy diễn là “Từ đời Minh, Thanh trở đi, vùng biển quần đảo Tây Sa, Nam Sa vẫn được đặt vào phạm vi tuần tiễu của thuỷ quân Trung Quốc”, và sau này, được biến thành các chứng cứ về việc Trung Quốc “quản lý và thực thi” chủ quyền sớm nhất đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Chiếu theo những quy định của luật pháp quốc tế tập quán đương thời về chiếm hữu và thực thi chủ quyền đối với những lãnh thổ vô chủ, có thể nói rằng các tác giả Sách trắng Trung Quốc và cuốn Tổng hợp sử liệu không đưa ra được bằng cứ lịch sử và pháp lý xác thực nào, ngoài những chứng cứ hoàn toàn nguỵ tạo, xuyên tạc thực tế và lịch sử hoặc một số ghi chép của một vài cá nhân, để có thể chứng minh Trung Quốc đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền thực sự, liên tục và hoà bình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc bị nhiều quốc gia phản đối.

Để làm sáng tỏ được vấn đề Trung Quốc có chủ quyền lâu đời đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay không chỉ cần làm một việc rất đơn giản là xác định xem hai quần đảo này có bao giờ được các triều đại phong kiến Trung Quốc coi là một phần cương vực Trung Quốc từ lâu đời hay không. Nghiên cứu các bộ chính sử và sử liệu chính thức của Trung Quốc như Tiền Hán thư, Đường thư, Tống sử, Nguyên sử, Minh sử và Khâm định Đại Thanh hội điển đồ, người ta có thể rút ra một số nhận xét quan trọng. Một là, chính sử Trung Quốc từ Tiền Hán cho đến cuối đời nhà Thanh đều cho thấy điểm cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam. Hai là, không có ghi chép nào trong các bộ chính sử nói trên về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà người Trung Quốc gọi là “Tây Sa” và “Nam Sa”, càng không có bất kỳ ghi chép nào nhắc đến chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này ở biển Đông.

Về câu chuyện “sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Trung Quốc đã thu hồi quần đảo Tây Sa và Nam Sa từ tay quân Nhật”, ông Lương cũng phát biểu rất ngắn, chỉ khẳng định hết sức chủ quan. Vậy phát biểu của ông Lương có đúng với sự thật lịch sử hay không ?

Trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai, lo ngại việc Đồng minh có thể sử dụng các đảo ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa làm căn cứ tàu ngầm, người Nhật đã chiếm các đảo “nằm ngoài khơi Đông Dương” đổi tên chúng thành Shin-nan Gunto (miền Nam mới). Thông cáo của Bộ Ngoại giao Nhật Bản ngày 31 tháng 5 năm 1939 tuyên bố rằng Nhật Bản là người đầu tiên thăm dò các đảo Trường Sa và Hoàng Sa vào năm 1917. Hành động của Nhật Bản thực chất là một hành vi xâm lược, sử dụng vũ lực để chiếm đoạt một số đảo tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ tay Pháp – là người thay mặt An Nam quản lý hai quần đảo này vào thời điểm đó. Trước sự kiện này, Chính phủ Pháp đã gửi công hàm ngày 4 tháng 4 năm 1939 phản đối hành động của Chính phủ Nhật Bản và bảo lưu các quyền của Pháp đối với hai quần đảo. Cuộc xung đột này đã bị ngắt quãng bởi Chiến tranh thế giới thứ hai và việc quản lý thực tế các đảo này của Pháp tạm thời bị sao nhãng cho đến khi người Nhật bị thất bại vào tháng 8 năm 1945 đã rút khỏi Đông Dương.

Từ ngày 23 đến ngày 27 tháng 11 năm 1943, người đứng đầu của Mỹ là Tổng thống Franklin D. Roosevelt, của Anh là Thủ tướng Winston L. Spencer Churchill và của Trung Hoa Dân quốc là Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã họp tại Cai Rô (Ai Cập) để thảo luận về việc kết thúc chiến tranh với Nhật Bản và giải quyết các vấn đề sau chiến tranh, trong đó có vấn đề lãnh thổ nước bị Nhật Bản cướp đoạt và chiếm đóng. Pháp và Việt Nam đều không có điều kiện tham dự Hội nghị để bảo vệ các quyền của mình. Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Cai Rô ngày 26 tháng 11 năm 1943.

Khi đề cập đến những lãnh thổ mà Nhật Bản đã cướp đoạt và chiếm của các nước khác, Tuyên bố viết: “Mục đích của ba nước (tức là Mỹ, Anh và Trung Hoa Dân quốc) là phải tước bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà nước này đã cưỡng đoạt hay chiếm đóng từ đầu Chiến tranh thế giới lần thứ nhất năm 1914 và tất cả những lãnh thổ mà Nhật Bản đã cướp của người Trung Quốc như Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ phải được hoàn trả lại cho Trung Hoa Dân quốc. Nhật Bản cũng phải bị trục xuất khỏi các lãnh thổ khác mà nước này chiếm được bằng vũ lực và lòng tham”.[2]

Như vậy, Tuyên bố Cai Rô khẳng định Nhật Bản chỉ chiếm của Trung Quốc Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ và buộc Nhật Bản phải trả cho Trung Quốc những vùng lãnh thổ này. Tuyên bố không coi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc bị Nhật Bản xâm chiếm, và vì vậy, không nói gì đến việc trao trả lại cho Trung Quốc.

Nếu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đúng là lãnh thổ của Trung Quốc từ lâu đời và bị Pháp, Nhật Bản xâm chiếm một cách phi pháp thì không có lý gì tại Hội nghị này Trung Hoa Dân quốc không đòi lại chủ quyền đối với hai quần đảo này khi họ là một trong các nước đồng minh soạn thảo ra văn kiện trên. Sự im lặng của Trung Hoa Dân quốc, là một bên có thẩm quyền quyết định các vấn đề lãnh thổ tại Hội nghị Cai Rô, không thể giải thích cách nào khác hơn là chính họ cũng đã biết rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không phải là lãnh thổ của Trung Quốc. Đây là một sự kiện có ý nghĩa pháp lý quan trọng, nhưng sau đó đã bị Trung Quốc cố ý lờ đi để thay đổi lập trường, coi hai quần đảo này là của Trung Quốc.

Từ ngày 17 tháng 7 đến ngày 2 tháng 8 năm 1945, những người đứng đầu ba nước Trung Hoa Dân quốc, Mỹ và Anh lại nhóm họp tại Potsdam. Ngày 26 tháng 7 năm 1945, Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Potsdam. Tuyên bố Potsdam quy định về phương cách giải giáp quân đội Nhật Bản ở Đông Dương, cụ thể như sau :

– Giao cho quân đội Trung Quốc giải giáp quân đội Nhật Bản ở khu vực phía Bắc vĩ tuyến 16 và giao cho quân đội Anh – Ấn giải giáp quân đội Nhật Bản ở khu vực phía Nam vĩ tuyến 16.

– Về việc giải quyết những vùng lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm của các nước, Tuyên bố Potsdam chỉ quy định đơn giản là : “Các điều khoản của Tuyên bố Cai Rô sẽ được thi hành”.

“Các điều khoản của Tuyên bố Cai Rô sẽ được thi hành” tức là Nhật Bản phải trả lại cho Trung Quốc Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ, là những vùng lãnh thổ của Trung Quốc đã bị Nhật Bản chiếm đoạt trước kia.

Như vậy, không có một nội dung nào trong Tuyên bố Potsdam coi hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc bị Nhật Bản chiếm và phải trả lại cho Trung Quốc.

Hội nghị San Francisco được nhóm họp từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 9 năm 1951 tại San Francisco (Hoa Kỳ) để thảo luận vấn đề chấm dứt chiến tranh tại châu Á – Thái Bình Dương và bàn việc ký Hoà ước với Nhật Bản đã được Anh – Mỹ soạn thảo và đưa ra ngày 12 tháng 7 năm 1951. Trong phiên họp ngày 5 tháng 9 năm 1951, trên cơ sở cho rằng các đảo ở Biển Đông thuộc “lãnh thổ không thể nhân nhượng được” của Trung Quốc, đại biểu của Liên Xô, ông Andrei Gromưko, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, đề nghị bổ sung dự thảo Hiệp ước hoà bình với Nhật Bản, theo đó : công nhận chủ quyền của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên “các đảo Paracels và các đảo khác vượt quá về phía Nam”, coi đó là lãnh thổ không thể nhân nhượng được của Trung Quốc.[3] Đại diện của Liên Xô không đưa ra một bằng chứng pháp lý nào khẳng định quần đảo Paracel và Spratly (Hoàng Sa và Trường Sa) là của Trung Quốc. Như vậy, đề nghị của Liên Xô chỉ có tính chính trị, được đưa ra nhằm mở rộng phần lãnh thổ cho các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa. Hội nghị đã bỏ phiếu về việc có đưa đề nghị bổ sung này ra bàn hay không. Kết quả bỏ phiếu là: chỉ có 3 nước đồng ý đưa đề nghị bổ sung trên ra bàn bạc; một nước bỏ phiếu trắng, 47 nước bỏ phiếu chống. Điều đó cho thấy tuyệt đại đa số các nước tham gia Hội nghị không chấp nhận giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, không coi đó là lãnh thổ Trung Quốc, không công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cũng tại Hội nghị San Francisco, với tư cách là thành viên của khối Liên hiệp Pháp, Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Bảo Đại, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Trần Văn Hữu, đã long trọng tuyên bố trước đại biểu của 51 nước tham gia Hội nghị rằng : “Cũng vì cần phải dứt khoát lợi dụng mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống tranh chấp sau này, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, những quần đảo này luôn luôn thuộc về Việt Nam”.[4] Tuyên bố này không gặp phải sự bảo lưu hay phản đối nào của đại diện các nước tham dự Hội nghị. Đây là một biểu hiện chứng tỏ sự thừa nhận của các nước Đồng minh về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Theo thoả thuận của các nước Đồng minh được ghi nhận rõ ràng trong Tuyên bố Potsdam thì quân đội Trung Quốc được giao trách nhiệm giải giáp quân đội Nhật Bản ở khu vực phía Bắc vĩ tuyến 16 và quân đội Anh – Ấn có trách nhiệm giải giáp quân đội Nhật Bản ở khu vực phía Nam vĩ tuyến 16. Như vậy, quần đảo Hoàng Sa nằm trong khu vực quân đội Trung Quốc giải giáp quân đội Nhật Bản.[5] Nhưng theo Thỏa ước Trung – Nhật ngày 28 tháng 2 năm 1946, Trung Quốc đã chuyển giao cho Pháp nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật Bản tại khu vực lãnh thổ thuộc Đông Dương ở phía Bắc vĩ tuyến 16oN, trong đó có quần đảo Hoàng Sa. Như vậy, từ thời điểm đó về mặt pháp lý và trên thực tế, Pháp đã từng bước lập lại sự quản lý của mình đối với khu vực lãnh thổ Đông Dương , trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Thực hiện trách nhiệm được giao, vào tháng 6 năm 1946 Pháp đã cho quân đổ bộ lên đảo Hoàng Sa thuộc quần đảo Hoàng Sa để tiếp quản quần đảo này. Đó là hành động hợp pháp, phù hợp với thoả thuận của các nước Đồng Minh và Thoả ước Trung – Nhật ký ngày 28 tháng 2 năm 1946.

Lợi dụng chiến tranh toàn diện sắp bùng nổ ở Việt Nam, ngày 26 tháng 10 năm 1946, Trung Hoa Dân quốc cho quân đội đổ bộ lên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa và đảo Itu Aba thuộc quần đảo Trường Sa. Chính phủ Pháp đã phản đối chính thức sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Quốc. Ngày 17 tháng 10 năm 1947, Thông báo hạm Tonkinois của Pháp được phái đến Hoàng Sa để yêu cầu quân Trung Quốc rút khỏi Phú Lâm nhưng họ không rút. Pháp gửi một phân đội lính trong đó có cả quân lính “Quốc gia Việt Nam” đến đóng một đồn ở đảo Pattle (Hoàng Sa). Chính phủ Trung Quốc phản kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành từ ngày 25 tháng 2 đến ngày 4 tháng 7 năm 1947 tại Paris. Pháp đề nghị đưa ra trọng tài quốc tế để giải quyết tranh chấp nhưng chính quyền Tưởng Giới Thạch từ chối. Tháng 4 năm 1949, Đổng Lý Văn Phòng của quốc trưởng Bảo Đại là hoàng thân Bửu Lộc, trong một cuộc họp báo tại Sài Gòn đã công khai khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đã từ lâu đời trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào tháng 4 năm 1950, quân lính Trung Hoa Dân Quốc rút hết quân khỏi quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đồn lính của Pháp đóng ở đảo Hoàng Sa (Pattle) vẫn được duy trì. Trước khi rút khỏi Việt Nam, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho chính quyền miền Nam Việt Nam quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Như vậy, không có chuyện Trung Quốc đã thu hồi quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ tay Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Về việc người Trung Quốc đã “áp dụng một loạt biện pháp tái khẳng định chủ quyền đối với các quần đảo ở Nam Hải”, có thể khẳng định rằng vì không có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho nên người Trung Quốc không có cơ sở nào để tái khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo này. Để hiểu rõ sự thật, có lẽ cần nói qua về lịch sử của vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Các triều đại phong kiến Việt Nam đã phát hiện và quản lý về mặt Nhà nước đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đời. Những tài liệu lịch sử để lại đã chứng minh việc thực thi chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo này ít ra là từ thời Chúa Nguyễn vào đầu thế kỷ thứ XVII. Vào thời kỳ này, Chúa Nguyễn đã tổ chức khai thác định kỳ trên các đảo. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải có nhiệm vụ ra đóng ở hai quần đảo, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo, và những hoá vật do lấy được từ những tàu đắm. Năm 1816, Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình. Năm 1835, Vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần tiễu và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi Pháp nhảy vào Đông Dương. Cho đến ngày bị Pháp đô hộ, các triều đại kế tiếp trị vì nước Việt Nam đã liên tục nắm chủ quyền trên hai quần đảo này một cách hòa bình, không có nước nào cạnh tranh, phản đối và thừa nhận các hải đảo này hoàn toàn thuộc lãnh thổ của Việt Nam.

Trong khi đó, theo nhiều tư liệu của Trung Quốc và của các học giả nước ngoài thì phải đến đầu thế kỷ 20, vào năm 1909, trước sự đe doạ của chủ nghĩa nghĩa bành trướng Nhật Bản, Trung Hoa mới quan tâm đến quần đảo Hoàng Sa và đến những thập kỷ 20 và 30 thì mới thể hiện ý đồ tranh giành chủ quyền với chính quyền bảo hộ Pháp. Cho đến lúc đó thì người Trung Hoa chưa có hành động chiếm hữu thực sự nào đối với các đảo ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, vào năm 1947, quân đội Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Phú Lâm (thuộc Nhóm Đông của quần đảo Hoàng Sa và đảo Itu Aba (thuộc quần đảo Trường Sa). Trong thời gian đó, quân đội Pháp đang đóng ở đảo Hoàng Sa (thuộc Nhóm Tây của quần đảo Hoàng Sa) và một số đảo khác ở quần đào Trường Sa. Sau khi đuổi được quân đội Tưởng Giới Thạch ra khỏi lục địa, chính quyền Bắc Kinh đánh chiếm đảo Phú Lâm vào năm 1956. Đài Loan vẫn tiếp tục chiếm đóng ở đảo Itu Aba (đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa). Năm 1974, quân đội Bắc Kinh đã sử dụng vũ lực để chiếm nốt phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa, và năm 1988, đánh chiếm một số đá, bãi ngầm của quần đảo Trường Sa. Năm 1995, Trung Quốc lại sử dụng vũ lực để chiếm bãi Vành Khăn ở khu vực quần đảo Trường Sa.

Như vậy, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa và một phần của quần đảo Trường Sa. Hành vi đó là một sự vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế về cấm sử dụng và đe dạo sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Nguyên tắc này đã được quy định trong Tuyên bố Briand Kellogg năm 1928 và được tái khẳng định trong Hiến chương Liên hợp quốc, trong đó điều 2 khoản 4 quy định rõ việc cấm sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là cấm sử dụng vũ lực, để xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác.[6] Nội dung điều khoản này trong Hiến chương Liên hợp quốc là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đòi hỏi tất cả các quốc gia đều phải tuân thủ.

Nguyên tắc này được phát triển và ghi nhận cụ thể hơn trong Nghị quyết 2625 ngày 24 tháng 10 năm 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc trong đó quy định: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng cách đe doạ sử dụng vũ lực hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”. Nghị quyết đó cũng tuyên bố: “Các quốc gia có nghĩa vụ không đe doạ hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác hay (coi đe doạ hay sử dụng vũ lực) như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất đai và những vấn đề liên quan đến biên giới của các quốc gia”.[7]

Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là trái với luật pháp quốc tế. Sự hiện diện trên thực tế của Trung Quốc trên hai quần đảo này không thể tạo ra chứng cứ để quy thuộc chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo, đá mà họ đã dùng vũ lực để chiếm đoạt. Sự hiện diện bất hợp pháp đó không giúp bổ sung vào bộ hồ sơ pháp lý về chủ quyền lâu đời của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hành động này của Trung Quốc đã bị dư luận quốc tế kịch liệt phán đối. Chắc chắn luận điểm “hiện diện thực tế” phi pháp này của Trung Quốc sẽ bị các toà án quốc tế bác bỏ nếu Trung Quốc đưa luận điểm đó ra trước các tòa án quốc tế đó nhằm minh chứng cho chủ quyền lâu đời của Trung Quốc đối với hai quần đảo.

Về câu chuyện “năm 1958 Thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã gửi công hàm tới Thủ tướng Chu Ân Lai thừa nhận rõ ràng rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với các đảo ở Nam Hải trong đó gồm hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa”, để hiểu thực chất vấn đề cần làm sáng tỏ nội dung công thư của ông Phạm Văn Đồng và bối cảnh ra đời công thư đó.

Ngày 4 tháng 9 năm 1958 Chu Ân Lai, Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Hoa Lục, gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:

“Thưa đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”.

Công thư nêu trên của Phạm Văn Đồng có hai nội dung hết sức đơn giản và rõ ràng, đó là ông chỉ ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý và chỉ thị cho các cơ quan Việt Nam tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Trong công thư của ông Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Chu Ân Lai đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ thôi cũng dễ dàng nhận thấy rằng mọi suy diễn cho rằng ông Phạm Văn Đồng đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc và không có cơ sở pháp lý vì một số lý do sau đây:

– Một là, theo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó, ông Phạm Văn Đồng không có thẩm quyền quyết định về các vấn đề biên giới lãnh thổ và chủ quyền quốc gia.

– Hai là, về mặt pháp lý quốc tế, vào thời điểm ông Phạm Văn Đồng gửi công thư nêu trên cho ông Chu Ân Lai, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc thẩm quyền quản lý thực tế của chính quyền Sài Gòn. Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 chia cắt hai miền Nam, Bắc Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời. Theo Hiệp định này, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Lúc đó, chính quyền Việt Nam Cộng hoà lãnh trách nhiệm quản lý lãnh thổ phía Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 và đã tiếp quản hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1956 khi Pháp rút khỏi Đông Dương. Từ đó, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đã tổ chức hai quần đảo về mặt hành chính, tổ chức khảo sát, khai thác tài nguyên và bảo vệ hai quần đảo này, chống lại những hành động và ý đồ xâm chiếm của các nước khác đối với hai quần đảo. Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam cũng đã tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

– Ba là, Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không có bất kỳ tuyên bố nào về cái gọi là công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo đó.

Như vậy, không thể khẳng định rằng ông Phạm Văn Đồng đã chối bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, càng không thể xuyên tạc là Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo đó. Trong bối cảnh Mỹ đang leo thang chiến tranh, đe dọa phong tỏa các vùng biển của miến Bắc, công thư của ông Phạm Văn Đồng chỉ là sự thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc mà thôi. Ông Phạm Văn Đồng không thể dễ dàng từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do.

2. Về yêu sách “đường đứt khúc” của Trung Quốc trên biển Đông

Về yêu sách “đường đứt khúc” của Trung Quốc trên biển Đông ông Lương nêu lên một số ý sau:

– Về nguồn gốc của “đường đứt khúc”, ông Lương cho rằng tháng 12 năm 1947, Bộ Nội chính Chính phủ Trung Quốc đã ban hành “Bản đồ vị trí các đảo ở Nam Hải” có vẽ “đường đứt khúc”, bên trong “đường đứt khúc” thể hiện 4 quần đảo lớn ở Nam Hải, cũng chính là 4 quần đảo “Tây Sa”, “Đông Sa”, “Trung Sa”, “Nam Sa” và đặt tên cho một số đảo, đá, bãi…, đồng thời chính thức công bố ra bên ngoài vào năm 1948.

– Về bản chất của “đường đứt khúc”, ông Lương khẳng định đường này là để khẳng định chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi biển liên quan của Trung Quốc trong biển Đông. Vùng biển mà Trung Quốc yêu sách “bao gồm lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, rộng khoảng 3 triệu km2”.

“Đường đứt khúc” được đưa ra trước Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 vì vậy không trái với Công ước. Công ước không bác bỏ những quyền lợi đã hình thành và được yêu sách liên tục trước khi Công ước ra đời.

Phát biểu của ông Dị Tiên Lương về yêu sách “đường đứt khúc” của Trung Quốc trên biển Đông cho thấy rằng:

– Một là, ông Lương rất hồ đồ khi cho rằng việc Chính phủ Trung Quốc đưa lên bản đồ “đường đứt khúc” vào năm 1948 và sau đó tiếp tục in lại trên bản đồ là hành vi thể hiện Chính phủ Trung Quốc luôn kiên trì “chủ quyền, quyền lợi và yêu sách liên quan của Trung Quốc ở Nam Hải”. Ông Lương thừa hiểu rằng, theo luật pháp quốc tế, mọi yêu sách chủ quyền, lãnh thổ đòi hỏi rất khắt khe, phải đáp ứng đầy đủ tất các tiêu chuẩn pháp lý cần thiết. Là người đảm trách các công việc biên giới và biển của Bộ Ngoại giao, chắc ông Lương thừa hiểu rằng một con đường đứt khúc được vẽ ra tùy tiện trên bản đồ, không có tọa độ của những điểm cụ thể, không được giải thích rõ bản chất pháp lý vào thời điểm công bố, không dựa trên bất kỳ chuẩn mực nào của luật pháp quốc tế thì không thể được coi là yêu sách chủ quyền.

– Hai là, chỉ riêng về mặt câu chữ đơn thuần cũng đã cho thấy phát biểu của ông Lương là hoàn toàn thiếu nhất quán về bản chất pháp lý của “đường đứt khúc”. Lúc thì ông nói “đường đứt khúc” là để khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc trên biển Đông. Tức là ông coi “đường đứt khúc” như một đường biên giới quốc gia và vùng biển trong “đường đứt khúc” là vùng nước lịch sử có quy chế nội thủy. Lúc thì ông nói vùng biển trong “đường đứt khúc” mà Trung Quốc yêu sách là “lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”, là những vùng biển có quy chế pháp lý khác nhau và hoàn toàn khác với quy chế pháp lý của Nội thuỷ. Cả hai loại lập luận của ông Lương về bản chất “đường đứt khúc” đều hoang đường và trái với luật pháp quốc tế như nhau.

Theo luật pháp quốc tế, để có danh nghĩa lịch sử đối với vùng nước lịch sử thì quốc gia ven biển phải đáp ứng được ít nhất hai điều kiện.

Một là, quốc gia ven biển phải thực hiện thực sự chủ quyền của mình một cách liên tục, hoà bình và lâu dài. Về điểm này, có thể khẳng định rằng Trung Quốc chưa hề thực hiện một cách thực sự chủ quyền của mình ở Biển Đông một cách liên tục, hòa bình và lâu dài. Cho dù Trung Quốc có thể chứng minh rằng từ thời xa xưa người dân của họ đã đi lại và đánh cá trên trong vùng biển Đông thì sự việc đó cũng không thể được coi là chứng cứ thiết lập danh nghĩa lịch sử đối với một vùng biển rộng lớn chiếm hầu hết Biển Đông. Các sách Hán văn cổ đều ghi nhận các hoạt động của dân đánh cá và dân buôn Ả-rập, Ấn Độ, Malaysia, Indonêxia, Việt Nam và vùng Vịnh trong vùng biển này.[8] Cho đến tận những năm 1990 của thế kỷ trước, các quốc gia trong khu vực vẫn tiến hành các hoạt động dầu khí, đánh bắt cá, sử dụng biển một cách bình thường trong Biển Đông mà không có sự ngăn cản nào của phía Trung Quốc. Biển Đông đã từng là các tuyến đường hàng hải của tàu bè nhiều nước và sẽ tiếp tục là các tuyến hàng hải quan trọng của các nước này.

Hai là, phải có sự chấp nhận công khai hoặc im lặng không phản đối của các quốc gia khác, nhất là các quốc gia láng giềng và có quyền lợi tại vùng biển này. Lập luận của Trung Quốc rằng từ năm 1948 Trung Quốc đã chính thức phát hành bản đồ thể hiện “đường đứt khúc” và không có một nước nào phản đối chứng tỏ là các nước thừa nhận đường này là đường biên giới quốc gia trên biển của Trung Quốc là không thể chấp nhận được. Về điểm này, cần khẳng định là: Trung Quốc chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách Biển Đông theo “đường đứt khúc”. Tức là Trung Quốc không có hành vi thể hiện mang tính công khai ý chí thực thi chủ quyền trên vùng biển này. Do vậy mà không một quốc gia nào có phản ứng công khai trước dư luận quốc tế là một điều dễ hiểu.

Bản thân Chính phủ Trung Quốc chưa bao giờ cho rằng đã có tồn tại một vùng nước lịch sử của họ ở biển Đông cho nên các văn bản pháp luật về biển do Trung Quốc ban hành đều không đề cập đến cái gọi là “vùng nước lịch sử”. Ngay cả khi ký và phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982, Trung Quốc cũng không hề nhắc đến hay bảo lưu về vấn đề này.

Lập luận vùng biển trong “đường đứt khúc” mà Trung Quốc yêu sách là “lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa” của Trung Quốc mà ông Lương nêu ra cũng hoàn toàn không có cơ sở. Không có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc không có quyền xác lập vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa xung quanh hai quần đảo này.

Hơn nữa, dù bất kể chủ sở hữu các đảo, đá ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là ai thì các đảo, đá này cũng không thể được coi là cơ sở để xác lập vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Như Công hàm số 480/POL-703/VII/10 của Phái đoàn thường trực của nước Cộng hòa Indonesia gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc ngày 8 tháng 7 năm 2010 để phản đối tấm bản đồ yêu sách hình chữ U (hay còn gọi là đường đứt khúc 9 đoạn) kèm theo Công hàm số CML/17/2009 ngày 7 tháng 5 năm 2009 của Phái đoàn thường trực của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã chỉ rõ: “sẽ là đúng đắn khi tuyên bố rằng những đảo xa xôi hay rất nhỏ này ở biển Đông không có quyền được có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa. Việc cho phép sử dụng các đảo đá, đá ngầm và đảo san hô không người ở, tách biệt với lục địa và nằm giữa biển khơi làm điểm cơ sở để hình thành không gian biển là liên quan tới các nguyên tắc cơ bản của Công ước luật biển và xâm phạm đến các lợi ích chính đáng của cộng đồng quốc tế”. Chính Tuyên bố của đoàn Trung Quốc tại Cuộc họp thứ 19 của các Quốc gia thành viên của Công ước luật biển (SPLOS) được tổ chức tại New York từ ngày 22 – 26 tháng 6 năm 2009 cũng đã khẳng định rằng “theo Điều 121 Công ước luật biển, các đảo đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa”.

Ông Lương đã hoàn toàn ngụy biện khi lập luận rằng việc yêu cầu “đường đứt khúc” được công bố phải phù hợp với Công ước luật biển 1982 là không hợp lý vì Công ước ra đời sau khi “đường đứt khúc” được công bố và “bản thân Công ước không bác bỏ những quyền lợi đã hình thành và được yêu sách liên tục trước khi Công ước ra đời”.

Ông Lương cho rằng “đường đứt khúc” phải được phán xét theo các tiêu chuẩn pháp lý hiện hành vào thời điểm đường này được công bố, tức là theo nguyên tắc “luật đương đại”. Xin hỏi ông Lương làm sao có thể coi việc Trung Quốc công bố “đường đứt khúc” năm 1948, một đường hầu như ôm trọn biển Đông và có những đoạn cách xa bờ biển Trung Quốc hàng ngàn cây số là phù hợp với luật đương đại khi mà luật pháp và thực tiễn quốc tế thời đó chỉ thừa nhận chủ quyền của một nước ven biển đối với Lãnh hải có chiều rộng tối đa không quá ba hải lý tính từ bờ biển hoặc từ đường cơ sở theo ngấn nước thuỷ triều thấp nhất; khi mà khái niệm vùng Đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa vẫn chưa được hình thành; khi mà luật pháp và thực tiễn quốc tế thời đó chỉ thừa nhận quyền lịch sử hay vùng nước lịch sử của một nước đối với vùng biển rất hạn chế về diện tích và phải đáp ứng đầy đủ tất cả các tiêu chuẩn kỹ thuật và cơ sở pháp lý như đã phân tích ở phần trên ?

Người ta có thể chia sẻ phần nào với luận điểm của ông Lương rằng “Công ước luật biển năm 1982 không bác bỏ những quyền lợi đã hình thành và được yêu sách liên tục trước khi Công ước này ra đời”. Tuy nhiên, cần lưu ý là sự “không bác bỏ” như vậy chỉ có thể viện dẫn đối với các quyền lợi hợp pháp, phù hợp với luật pháp quốc tế mà thôi. Xét về phương diện này thì “đường đứt khúc” không thể đứng vững trước các quy định của Công ước luật biển năm 1982.

Tóm lại, yêu sách “đường đứt khúc” của Trung Quốc rõ ràng là không có cơ sở pháp lý quốc tế và trái với các quy định của Công ước luật biển 1982 về các vùng biển của quốc gia ven biển, xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Philipin, Indonesia, Malaysia và Brunei. Chính vì vậy mà sau khi Trung Quốc chính thức đưa “đường đứt khúc” ra Liên hợp quốc vào năm 2009, không chỉ Indonesia mà cả Việt Nam và Philipin cũng đã gửi công hàm cho Tổng thư ký Liên hợp quốc phản đối yêu sách phi lý đó của Trung Quốc. Nhiều học giả quốc tế và dư luận báo chí thế giới cũng lên tiếng chỉ ra sự phi lý và phi pháp của con đường này.

3. Về cái gọi là thiện chí hòa bình của Trung Quốc ở biển Đông

Sau khi lên án một số nước trong khu vực đã vi phạm nguyên tắc chủ quyền lãnh thổ là bất khả xâm phạm đã được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc, đưa ra đòi hỏi lãnh thổ đối với các quần đảo của Trung Quốc ở biển Đông và xâm chiếm trái phép một số đảo của Trung Quốc, thách thức nghiêm trọng chủ quyền của Trung Quốc, trực tiếp khiến tình hình ở biển Đông nóng lên, ông Lương tâm sự với cư dân mạng Trung Quốc rằng: “Trong tình hình phức tạp đó, Trung Quốc đã điềm đạm, bình tĩnh, ứng phó ổn thỏa, thúc đẩy tình hình phát triển theo hướng tích cực, duy trì cục diện môi trường xung quanh ổn định” và “Việc Trung Quốc kiên trì “gác tranh chấp, cùng khai thác” đã thể hiện thiện chí và thành ý của phía Trung Quốc trong việc dốc sức xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề Nam Hải, góp phần tạo không khí tốt đẹp để giải quyết triệt để tranh chấp trong tương lai”.

Ông Lương kể rất nhiều chuyện để bày tỏ thiện chí hòa bình của Trung Quốc ở biển Đông. Chỉ có điều, ông quên không kể cho cư dân mạng nghe về những hoạt động gây hấn của Trung Quốc ở biển Đông trong thời gian qua như ban hành lệnh cấm đánh bắt cá ở biển Đông; triển khai mạnh các hoạt động quân sự nhằm khống chế biển Đông theo “đường đứt khúc”; uy hiếp và ngăn cản các hoạt động hợp pháp của Việt Nam và các nước láng giềng ngay trên chính thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của các nước này; và đặc biệt là, sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực để từng bước triển khai trên thực tế tham vọng bành trướng ở khu vực biển này. Chính những tuyên bố hung hăng và hành động hiếu chiến của Trung Quốc đã làm cho tình hình hết sức căng thẳng, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, an ninh và ổn định ở biển Đông.

Về cái “thiện chí và thành ý” của Trung Quốc trong việc kiên trì chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” mà ông Lương nhấn mạnh, có thể nói rằng “gác tranh chấp, cùng khai thác” là sáng kiến hay. Trong bối cảnh tranh chấp biển Đông hết sức phức tạp như hiện nay và còn lâu các bên tranh chấp mới có thể đi đến được giải pháp lâu dài, “gác tranh chấp, cùng khai thác” theo đúng những quy định của luật pháp quốc tế có thể góp phần mở ra một triển vọng tốt cho hoà bình, ổn định và hợp tác trong khu vực, đáp ứng nhu cầu phát triển của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, về nguyên tắc các nước tranh chấp trong khu vực không bác bỏ “cùng khai thác”, nhưng khẳng định chỉ xem xét “cùng khai thác” ở những vùng thực sự có tranh chấp, coi đó là một giải pháp tạm thời trong quá trình giải quyết vấn đề chủ quyền.

Nhìn lại tiến trình thúc đẩy ý tưởng “gác tranh chấp, cùng khai thác” của Trung Quốc, người ta thấy rằng những khu vực cụ thể mà Trung Quốc đề nghị khai thác chung đều là các vùng biển nằm trong “đường đứt khúc” chiếm đến 80% diện tích biển Đông, trùm lên phần lớn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác. Trung Quốc lập luận rằng vùng biển trong “đường đứt khúc” là vùng biển của Trung Quốc, do đó, phải coi đấy là “vùng biển tranh chấp”, và đã là vùng biển tranh chấp thì phải “cùng khai thác”. Như vậy, chủ trương “cùng khai thác” của Trung Quốc thực chất là “cùng khai thác” tài nguyên trong các vùng biển của các quốc gia khác, chứ không phải “cùng khai thác” trên vùng biển của Trung Quốc hoặc ở các vùng biển thực sự có tranh chấp.

Như vậy, những yêu sách phi lý về chủ quyền của Trung Quốc chính là một trong những nguyên nhân cơ bản khác cản trở tiến trình “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở biển Đông.

Tóm lại, những phân tích nêu trên cho thấy:

Các luận điểm mà ông Lương đưa ra để biện minh cho yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông, dù đó là yêu sách chủ quyền lâu đời đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam hay yêu sách “đường đứt khúc” trùm lên hơn 80% diện tích biển Đông, chỉ là những luận điểm xuyên tạc, bóp méo sự thật theo tinh thần Đại Hán. Các yêu sách đó của Trung Quốc là hoàn toàn phi lý, vi phạm trắng trợn chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam và các nước khác trong khu vực tại các vùng biển được xác lập theo Công ước luật biển 1982.

Quan điểm “hợp tác cùng thắng” mà ông Vị Tiên Lương, một quan chức của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, muốn nhắn nhủ với dư luận trong và ngoài nước thực chất là “hợp tác cùng thắng” theo kiểu Trung Quốc. Tiền đề cho hợp tác cùng thắng kiểu này là các nước khác phải chấp nhận những yêu sách phi lý của Trung Quốc ở biển Đông bất chấp các nguyên tắc của luật pháp quốc tế nói chung và của Công ước luật biển 1982 nói riêng, biến vùng biển của các nước khác thành vùng tranh chấp và gây sức ép để đòi các nước này hợp tác với Trung Quốc “cùng khai thác” các vùng biển đó.

Đó là thực chất của cái gọi là “thiện chí hòa bình” của Trung Quốc đối với các vấn đề ở biển Đông mà ông Lương rao giảng trong buổi giao lưu trực tuyến với cư dân mạng. Nhưng kiểu “thiện chí hòa bình” đó không thuyết phục được ai, cũng chẳng có tác dụng gì. Nếu quả thật có thiện chí “hợp tác cùng thắng, xử lý thỏa đáng tranh chấp trên biển” ở khu vực biển Đông, Trung Quốc cần từ bỏ những yêu sách chủ quyền phi lý của mình, tôn trọng chủ quyền, các quyền chủ quyền và lợi ích hợp pháp của các nước ven Biển Đông, thành tâm giải quyết các tranh chấp trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước luật biển 1982 và tuân thủ bản Tuyên bố về cách ứng xử trên biển Đông mà họ đã ký kết cùng với các nước ASEAN./.


[1] Hàn Chấn Hoa, Tổng hợp sử liệu các đảo Nam Hải nước ta, Nhà xuất bản Phương Đông (Bắc Kinh), 1988.

[2] Foreign relations of the United States, Diplomatic Papers: The Conferences at Cairo and Teheran 1943 (Tài liệu Ngoại giao: Các hội nghị Cai Rô và Teheran 1943), Washington D.C. United States, G.P.O, 1961, pp. 448-449).

[3] Keesing’s Contemparary Archives, volume 8 (1950-1952), p. 11722.

[4] Tạp chí France Asie số 66-67, tháng 11, 15 năm 1951, trang 9; Tài liệu Hội nghị kết thúc và ký kết Hoà ước với Nhật Bản, San Francisco, California, ngày 4-8 tháng 9 năm 1951; Hồ sơ về tiến trình Hội nghị San Francisco, Washington D.C.: Cơ quan in ấn Chính phủ, 1951, trang 263 (theo John K. Chao, trang 34).

[5] Cần lưu ý là các nước Đồng Minh chỉ đơn thuần giao trách nhiệm giải giáp quân đội Nhật Bản, không chuyển giao chủ quyền, và về pháp lý cũng không có thẩm quyền, trao chủ quyền cho nước có thực hiện trách nhiệm giải giáp.

[6] Điều 4, khoản 2, Hiến chương Liên hợp quốc.

[7] Nghị quyết 2625 ngày 24 tháng 10 năm 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc.

[8] G.M.C Valero: Spratly archipelago: is the question of sovereignty still relevant?, IILS, University of the Philippines, Law Center, Diliman, Quezon city, 1993.

RELATED ARTICLES

Tin mới