Với việc Trung Quốc gia tăng các hoạt động phi pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước ven Biển Đông, khiến tình hình khu vực ngày càng diễn biến phức tạp và tìm kiếm một giải pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông dần đi vào bế tắc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường an ninh và tình hình phát triển kinh tế của các nước.
Trong số các nước và vùng lãnh thổ quanh khu vực Biển Đông, thì 5 nước và vùng lãnh thổ có yêu sách đòi hỏi về chủ quyền biển, đảo, tạo nên tranh chấp đa phương và song phương, chứa đựng các mâu thuẫn cả về đối ngoại, kinh tế, quốc phòng và an ninh với các dạng tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán (tranh chấp về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa); tranh chấp về tài nguyên biển; tranh chấp đảo và bãi đá ngầm; tranh chấp vùng trời trên biển. Tranh chấp trên Biển Đông ngày càng kéo dài, phức tạp và chứa đựng các yếu tố tiềm ẩn khó lường và nếu thiếu giải pháp giải quyết thiện ý sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hoà bình, ổn định và hợp tác phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới.
Đối với quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc (1974) lợi dụng tình trạng chiến tranh ở Việt Nam, sử dụng các lực lượng hải quân và không quân chiếm đoạt phi pháp toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng phản đối, yêu cầu Trung Quốc tiến hành đàm phán hòa bình để giải quyết tranh chấp, song phía Trung Quốc ngang ngược cho rằng quần đảo Hoàng Sa “là của Trung Quốc và không tồn tại tranh chấp tại đây”. Đối với quần đảo Trường Sa, hiện 5 nước (Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia và Brunei) và 1 vùng lãnh thổ (Đài Loan) có tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, Việt Nam là nước duy nhất có đầy đủ bằng chứng pháp lý và chứng cứ lích sử khẳng định có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế cũng như quyền chủ quyền đối với thềm lục địa của Việt Nam trên Biển Đông.
Giải quyết hòa bình các tranh chấp theo luật quốc tế
Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS)[1] quy định giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế và cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực được coi là nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế hiện đại nhằm giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ. Các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế phải tuân thủ triệt để. Trong đó khẳng định, tất cả các quốc gia sẽ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình, không phương hại đến hòa bình, an ninh và công lý quốc tế. Các biện pháp hòa bình có thể là đàm phán, trung gian, hòa giải, trọng tài, Tòa án, hoặc các biện pháp hòa bình khác do các bên thỏa thuận lựa chọn[2]. Các quốc gia trong tranh chấp có nghĩa vụ từ bỏ bất kỳ hành vi nào có thể làm trầm trọng thêm tình hình hiện tại và gây nguy hiểm cho hòa bình, an ninh khu vực cũng như thế giới. Các tranh chấp quốc tế được giải quyết trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia, phù hợp và tự do lựa chọn cách thức giải quyết tranh chấp.
Phương thức đàm phán, thương lượng: Hiến chương Liên hợp quốc quy định đàm phán là một trong những phương thức hòa bình giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, Hiến chương không quy định cụ thể về định nghĩa, nguyên tắc, nội dung, cách thức thực hiện, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp bằng đàm phán, thương lượng… UNCLOS cũng có một số Điều, Khoản quy định về việc giải quyết hòa bình các tranh chấp bằng phương thức đàm phán, thương lượng. Trong đó, khoản 1 Điều 283 của UNCLOS quy định về nghĩa vụ ban đầu của các quốc gia khi xảy ra tranh chấp có quy định các bên tranh chấp tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về cách giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hay bằng các phương pháp hòa bình khác; Điều 15 của UNCLOSvề việc phân định ranh giới lãnh hải giữa các quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau cũng quy định, khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại.
Phương thức trung gian, môi giới, hòa giải, điều tra[3]: Trung gian là phương pháp hòa giải tranh chấp quốc tế thông qua bên thứ ba, bên không tham gia tranh chấp. Bên thứ ba có nhiệm vụ đảm nhiệm chức năng trung gian (Quốc gia, Tổng thư ký Liên hợp quốc, các chính khách quốc tế…) có nhiệm vụ đưa các bên tranh chấp ngồi vào bàn đàm phán và tham dự tiến trình đàm phán cùng với các bên tranh chấp. Hòa giải được xác định là “Một biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế bất kể tính chất của các tranh chấp này theo đó một Ủy ban được các bên thành lập, trên cơ sở thường trực hoặc adhoc để giải quyết tranh chấp, tiến hành việc xem xét một cách khách quan tranh chấp và cố gắng xác định xác điều khoản của một giải pháp mà các bên có thể chấp nhận hoặc tạo điều kiện cho các bên, với mục tiêu nhằm tìm kiếm một giải pháp, những sự trợ giúp tương tự trong trường hợp được các bên đề nghị”. Môi giới được coi là phương pháp đặc biệt của việc giải quyết các tranh chấp bằng phương pháp hòa bình thông qua con đường ngoại giao, bên thứ ba với sự nhất trí và tin cậy của các bên tranh chấp sẽ đảm nhận việc thuyết phục các bên tranh chấp ngồi vào bàn đàm phán. Điều tra là một hình thức giải quyết tranh chấp được ghi nhận trong các Công ước La Haye về giải quyết tranh chấp quốc tế 1899 và 1907. Theo đó, các bên tranh chấp có thể lập ra hoặc đề nghị thành lập một Ủy ban điều tra với nhiệm vụ là cùng tìm hiểu thực tế của sự việc dẫn đến tranh chấp giữa các bên. Khi kết thúc việc điều tra, Ủy ban sẽ đệ trình báo cáo lên các bên tranh chấp tuy nhiên báo cáo này không có giá trị pháp lý ràng buộc các bên.
Phương thức Tòa án và trọng tài[4]: Theo Khoản 1, Điều 287 của UNCLOS thì các phương thức tòa án và trọng tài sau đây mà các quốc gia có thể lựa chọn để giải quyết tranh chấp: Tòa án quốc tế về Luật biển được thành lập theo Phụ lục VI (ITLOS); Tòa án công lý quốc tế (ICJ); Tòa trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII; Tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo Phụ lục VIII để giải quyết một hay nhiều loại tranh chấp. Trọng tài theo Phụ lục VII và VIII của UNCLOS là một hình thức của trọng tài adhoc mà các bên có thể sử dụng để giải quyết tranh chấp về biển, đảo. Theo UNCLOS, khi có tranh chấp phát sinh trên biển, các bên liên quan có thể lựa chọn các thủ tục trọng tài được quy định tại Phụ lục VII, VIII UNCLOS làm cơ sở để thành lập hội đồng trọng tài vụ việc nhằm giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên liên quan.
Biện pháp giải quyết hòa bìnhtranh chấp ở Biển Đông
Biện pháp “Hợp tác cùng phát triển”: Trong chuyến thăm Thái Lan, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười (10/1993) đã chính thức đưa ra chủ trương trên. Theo đó, chủ trương “hợp tác cùng phát triển” trong các khu vực tranh chấp bao thăm dò, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, giữ gìn an toàn và an ninh hàng hải, chống cướp biển… và các lĩnh vực khác phù hợp với lợi ích của các bên liên quan, theo đúng luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế được thừa nhận rộng rãi; nhằm đảm bảo và phục vụ lợi ích của các bên liên quan, đưa Biển Đông thành một khu vực hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Việc hợp tác cùng phát triển được thực hiện ở những khu vực chồng lấn bởi những đòi hỏi chủ quyền của các bên liên quan có căn cứ pháp lý và lịch sử vững chắc, phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS và được các bên thừa nhận là vùng có tranh chấp[5].
Biện pháp “Gác tranh chấp, cùng khai thác”: Trong chuyến thăm Nhật Bản, ông Đặng Tiểu Bình (10/1982) đã đưa ra chủ trương “chủ quyền thuộc về ta, gác tranh chấp, cùng khai thác” nhằm lật lọng giữa vấn đề “chủ quyền” và hợp tác khai thác trong vùng tranh chấp. Phần lớn các khu vực mà Trung Quốc đề nghị khai thác chung đều nằm trên khu vực thềm lục địa hiển nhiên thuộc chủ quyền của nước khác theo UNCLOS; Trung Quốc vừa kêu gọi khai thác chung nhưng lại vẫn duy trì yêu sách “đường 9 đoạn” và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa (của Việt Nam). Việc Trung Quốc đưa ra chủ trương trên là nhằm duy trì được yêu sách lãnh thổ, biến vùng không tranh chấp thành tranh chấp, trấn an dư luận, mở rộng ảnh hưởng và chia rẽ các nước trong khu vực.
Biện pháp tài phán quốc tế: Philippines (22/1/2013) đã gửi hồ sơ tố tụng kiện Trung Quốc theo Phụ lục VII của UNCLOS “liên quan đến tranh chấp với Trung Quốc về quyền tài phán trên biển của Philippines ở biển Tây Philippines (Biển Đông)”. Tuy nhiên, Tòa tuyên bố chỉ có thẩm quyền xem xét 7 điểm trong hồ sơ kiện của Philippines, gồm: Bãi cạn Scarborough không được hưởng quy chế vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; đá Vành Khăn, bãi Cỏ Mây và đá Xu Bi là những kết cấu nửa chìm nửa nổi không được hưởng quy chế về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; đá Gaven và đá Ken Nan (bao gồm Đá Hu Gơ) là các thực thể nửa chìm nửa nổi không tạo ra lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tuy nhiên, ngấn nước triều thấp trên các thực thể này có thể được sử dụng làm đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải của đảo Nam Yết và đảo Sinh Tồn; đá Gạc Ma, đá Châu Viên và đá Chữ Thập không được hưởng quy chế vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; Trung Quốc đã có hành vi bất hợp pháp khi ngăn chặn ngư dân Philippines kiếm sống, bằng cách can thiệp vào các hoạt động đánh bắt cá truyền thống tại bãi cạn Scarborough; Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ của mình theo Công ước bảo vệ và bảo tồn môi trường biển tại bãi cạn Scarborough và bãi Cỏ Mây; Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ của mình theo UNCLOS bằng việc cho phép tàu của lực lượng hành pháp nước này thực hiện các hành vi nguy hiểm, gây ra nguy cơ va chạm lớn với tàu Philippines di chuyển trong vùng lân cận bãi cạn Scarborough. Tòa cũng tuyên bố rằng 7 điểm khác đang trong giai đoạn xem xét đánh giá tính hợp lý và một điểm đang bảo lưu, yêu cầu Philippines làm rõ thêm về điểm này. Tuy nhiên, vụ kiện của Philippines chỉ nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông không phù hợp với UNCLOS, một số rạn san hô và bãi cát ngầm Trung Quốc chiếm đóng không được hưởng lãnh hải hoặc làm cơ sở để tuyên bố có lãnh hải.
Biện pháp quân sự: Trước các hành động ngày càng bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc ở Biển Đông, các nước có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và Vùng đặc quyền kinh tế với Trung Quốc đang tăng cường sức mạnh quân sự nhằm tằng cường sức mạnh quân sự, bảo vệ những tuyến đường biển, cầu cảng cũng như các đường biên giới biển quan trọng cho hoạt động xuất nhập khẩu, cung cấp nhiên liệu. Tuy khả năng xảy ra xung đột vũ trang quy mô lớn khó có thể xảy ra, song không thể loại trừ việc Trung Quốc sử dụng sức mạnh quân sự để xâm chiếm các đảo, đá ở Biển Đông và ép các nước, trong đó có Việt Nam phải từ bỏ tuyên bố chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì vậy, hầu hết các nước ASEAN tập trung mua sắm vũ khí hiện đại, tinh vi đáp ứng cho hoạt động phòng không và phòng vệ trên biển như tàu chiến, tàu tuần tra, hệ thống radar, máy bay chiến đấu, tàu ngầm và tên lửa chống hạm. Theo Viện Nghiên cứu Hòa Bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) cho biết, tổng kim ngạch mua sắm vũ khí của các nước ASEAN lần đầu tiên vượt qua Liên minh châu Âu (EU). Năm 2015, ASEAN đã chi 35,5 tỷ USD vào việc mua sắm vũ khí và có thể đạt 40 tỷ USD trong năm 2016. Chuyên gia phân tích Công nghiệp Quốc phòng châu Á Thái Bình Dương Jon Grevatt (tạp chí IHS Jane’s) nhận định, “bảo vệ chủ quyền là yếu tố hàng đầu của tất cả các chính phủ trong khu vực. Rõ ràng các hoạt động của Trung Quốc đã làm gia tăng vấn đề về bảo vệ lãnh thổ”. Cùng quan điểm trên, ông James Hardy cho rằng “sự phát triển kinh tế đang giúp các nước Đông Nam Á có thêm động lực và khả năng để đầu tư vào quốc phòng nhằm bảo vệ các hoạt động đầu tư của họ, những tuyến đường biển và các vùng đặc quyền kinh tế. Xu hướng lớn nhất hiện giờ là đầu tư vào các hoạt động do thám và tuần tra hàng hải”.
Thông qua ASEAN: Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được ASEAN và Trung Quốc ký ngày 4/11/2002 tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 8 ở Phnom Penh (Campuchia). Là văn kiện chung đầu tiên giữa ASEAN và Trung Quốc trực tiếp liên quan vấn đề Biển Đông. Việc ký kết DOC là một bước tiến quan trọng trong việc đối thoại giữa Trung Quốc và ASEAN về vấn đề Biển Đông, góp phần tránh được các xung đột tại Biển Ðông, giữ ổn định cho khu vực và có lợi cho toàn khu vực. Ðể thúc đẩy thực hiện đầy đủ các quy định trong DOC, ASEAN và Trung Quốc đã lập 2 cơ chế là Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN – Trung Quốc về DOC (SOM ASEAN – Trung Quốc) và Nhóm Công tác chung ASEAN – Trung Quốc về thực hiện DOC (ACJWG). Thời gian qua, DOC thực sự là một văn kiện có vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa xung đột, duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông, đem lại lợi ích tích cực cho khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, do nhiều lý do, trong đó có cả sự khác biệt về quan điểm, lợi ích, nên một số biện pháp dự tính trong DOC chưa được triển khai, như: tìm kiếm các biện pháp xây dựng lòng tin; tìm kiếm các biện pháp hợp tác trong những lĩnh vực ít nhạy cảm và căng thẳng ở khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, gây sự quan ngại và quan tâm sâu sắc của khu vực và cộng đồng quốc tế. Ngoài ra, DOC còn quá nhiều hạn chế để đảm bảo an ninh, ổn định ở Biển Đông hiện nay. DOC không mang tính ràng buộc pháp lý nên dẫn đến việc các bên tham gia thiếu quyết tâm chính trị, chưa thống nhất trong vận dụng các điều khoản; chưa xác định được phạm vi áp dụng về mặt địa lý; chưa xây dựng được cơ chế giám sát, xử lý đối với các trường hợp vi phạm. Trong khi đó, Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) vẫn còn đi vào bế tắc.
Các bên liên quan cần làm gì?
Trước hết, các bên liên quan tranh chấp cần tuân thủ các nguyên tắc nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc, UNCLOS cùng các văn kiện, tuyên bố khác trong quan hệ giữa các quốc gia; tuân thủ nguyên tắc không sử dụng vũ lực, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thông qua đàm phán giữa các bên trực tiếp liên quan, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS; kiềm chế trong việc thực hiện các hành vi có thể gây phức tạp hoặc gia tăng tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình ổn định, kể cả việc không đưa người đến ở trên những đảo, đá, bãi ngầm chưa có người ở.
Thứ hai, các bên liên quan cần đẩy mạnh các biện pháp xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa thông qua các hoạt động chung, như: nghiên cứu đại dương, hợp tác nghề cá, bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ trên biển, khắc phục hậu quả thiên tai, phòng, chống cướp biển, chống khủng bố, tuần tra chung, tập trận chung; nghiêm cấm các hành động làm gia tăng xung đột, tranh chấp ở Biển Đông. Ngoài ra, tranh chấp Biển Đông là vấn đề lâu dài, phức tạp, các bên liên quan không chủ quan, nóng vội trong đàm phán phân định biển để có thể tận dụng hết mọi khả năng cũng như cơ hội mà mình có được.
Thứ ba, cần thúc đẩy xây dựng COC: Xây dựng COC là việc làm cấp thiết, đem lại lợi ích không chỉ cho ASEAN và Trung Quốc mà cho tất cả các nước ở trong và ngoài khu vực. Tuy COC không thể là phương tiện để giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ hay phân định ranh giới biển ở Biển Đông, nhưng COC sẽ tiếp tục là một công cụ xây dựng lòng tin nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định, tin cậy lẫn nhau và khuyến khích hợp tác sử dụng và quản lý Biển Đông một cách hòa bình, tối ưu trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS; các biện pháp thực hiện trong khuôn khổ COC sẽ không gây phương hại đến quá trình giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và vùng biển. Các bên tham gia ký kết COC phải là toàn bộ thành viên của ASEAN và Trung Quốc, có thể xem xét việc tham gia của các quốc gia có lợi ích liên quan và COC phải là văn bản pháp lý tạo khuôn mẫu cho quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong bối cảnh ở Biển Đông đang tồn tại nhiều tranh chấp do lịch sử để lại và nhu cầu sử dụng biển của các quốc gia trong khu vực và quốc tế đang tăng lên; phát huy được vai trò chủ đạo của ASEAN trong vấn đề an ninh trên Biển Đông. Nội dung của COC và việc triển khai thực hiện COC phải tuân thủ nguyên tắc của UNCLOS, Hiệp ước thân thiện và hợp tác giữa các quốc gia Đông Nam Á (TAC), SEANWFZ, 5 nguyên tắc cùng chung sống hòa bình, kế thừa các quy định trong DOC và Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC, các nguyên tắc phổ biến của luật quốc tế đã được thừa nhận; phải thiết lập các nguyên tắc chung về việc không sử dụng bạo lực, tránh đe dọa, ngăn ngừa xung đột, đồng thời giúp giải quyết những va chạm xung quanh việc khai thác và đánh bắt trên biển, đảm bảo an toàn trên biển. Phạm vi áp dụng của COC phải được xác định rõ bao gồm tất cả các đảo và vùng nước bên ngoài ranh giới 200 hải lý tính từ đường cơ sở, lãnh hải của các quốc gia ven biển và các đảo ở Biển Đông. Cần phân định rõ khu vực tranh chấp và không tranh chấp, xác định rõ những hoạt động được phép và không được phép thực hiện tại khu vực tranh chấp; đặc biệt là tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển, quyền tự do và an ninh hàng hải, an ninh hàng không tại Biển Đông phù hợp với quy định của UNCLOS.
Thứ tư, các nước cần có tinh thần thượng tôn pháp luật, cân nhắc lợi ích giữa các bên để có thể đem đến một sự công bằng tương đối cũng như bảo vệ được lợi ích hợp pháp của quốc gia mình; chủ động tiến hành đàm phán song phương nếu là tranh chấp giữa hai nước và đàm phán đa phương nếu là tranh chấp có liên quan đến lợi ích của các bên liên quan; việc đàm phán cần được tiến hành hết sức linh hoạt dựa trên điều kiện thực tế của việc giải quyết tranh chấp, không nên giữ quan điểm cứng nhắc; vận dụng và học hỏi kinh nghiệm thực tiễn từ việc phân định biển của các nước khác, cần phải nhận rõ những thách thức, nắm bắt đúng thời cơ để vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh thực tại.
Thứ năm, các bên liên quan cần thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao, tăng cường mối quan hệ và hiểu biết lẫn nhau để có thể thông cảm và tạo điều kiện thuận lợi cùng nhau đi đến thống nhất chung; cần thỏa thuận các điều khoản là chế tài ràng buộc nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia ký kết nhằm giúp các điều ước đó thực hiện và có ý nghĩa cũng như giá trị thật sự trên thực tế.
Thứ sáu, Trung Quốc cần từ bỏ chủ trương vô lý và chấm dứt các hoạt động làm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông; thực hiện nghiêm túc các quy định của luật pháp quốc tế cũng như các tuyên bố, hiệp định ký kết với các nước liên quan. Trong đó, Trung Quốc phải từ bỏ ngay chủ trương về việc chỉ tiến hành đàm phán song phương trực tiếp với từng nước liên quan; Trung Quốc phải thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam, Trung Quốc đã tiến hành chiếm đóng phi pháp và Trung Quốc phải tiến hành đàm phán với Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
Thứ bảy, các nước ASEAN cần đoàn kết, thống nhất trong nội bộ khối trước khi tiến hành đàm phán với Trung Quốc để có lập trường thống nhất, đủ nặng buộc Trung Quốc phải tuân thủ các hiệp định, tuyên bố đã ký kết với ASEAN, trong đó có DOC và TAC; nhanh chóng thúc đẩy việc đàm phán và ký kết COC mang tính ràng buộc pháp lý nhằm góp phần giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.
Thứ tám, các nước lớn có lợi ích ở Biển Đông cần tích cực can thiệp sâu hơn vào tranh chấp Biển Đông, có các biện pháp cụ thể kiềm chế các hoạt động phi pháp của Trung Quốc nhằm làm thay đổi nguyên trạng ở Trường Sa và buộc Trung Quốc phải tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế.
Nhìn chung, hiện nay, do tính chất phức tạp và nhạy cảm của các tranh chấp trên Biển Đông đã tác động trực tiếp đến sự ổn định chính trị trong khu vực và quốc tế, nên giải quyết tranh chấp ở Biển Đông sẽ diễn ra quyết liệt, liên tục và lâu dài, không thể giải quyết được trong thời gian ngắn. Để giải quyết được tranh chấp Biển Đông, điểm mấu chốt vẫn là ý chí trí chính trị và quyết tâm của lãnh đạo các nước liên quan, chỉ khi tất cả các nước cùng đồng thuận quan điểm, cách tiếp cận vấn đề thì mới tìm ra được biện pháp giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn và tranh chấp ở Biển Đông.
[1] Theo Điều 2, khoản 3 của Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 và Điều 279 UNCLOS.
[2] Theo Khoản 1 Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc.
[3] Công ước La Haye năm 1899 và năm 1907; Hiệp ước Briand – Kelloge năm 1928; Định ước của Hội quốc liên (The league of the nations)năm 1928; Khoản 1 Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc; UNCLOS…
[4]Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc; UNCLOS; Công ước La Haye 1899
[5] Theo đó, trên Biển Đông các vùng đang có tranh chấp cơ bản là khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và khu vực ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở của quốc gia ven biển. Ngoài ra còn có thể kể đến các vùng thềm lục địa ở phía Nam và Tây Nam Việt Nam cũng được coi là vùng chồng lấn được các bên thừa nhận những đòi hỏi chủ quyền của nhau giữa Việt Nam với Malaysia; Việt Nam, Thai Lan và Malaysia hay tại vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia.