Viện nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS-Yusof Ishak Institute) đã thực hiện các cuộc khảo sát với giới chuyên gia và học giả về mức độ ảnh hưởng của hai cường quốc thế giới là Mỹ và Trung Quốc đối với khu vực Đông Nam Á.
Trung Quốc vượt Mỹ
Theo kết quả của cuộc khảo sát năm 2020, Trung Quốc đã vượt trên Mỹ để trở thành bên tham gia chính trị và chiến lược có ảnh hưởng nhất ở khu vực Đông Nam Á, mặc dù kết quả khảo sát năm 2019 cho thấy Mỹ chi phối lĩnh vực chính trị-an ninh trong khu vực. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế có thể chưa hoàn toàn tán thành điều này, vì nhận định này được cho là không khớp với dữ liệu kinh tế khách quan. Chẳng hạn, số liệu thống kê chính thức của ASEAN năm 2018 cho thấy Trung Quốc đứng sau Liên minh châu Âu (EU) và Nhật Bản về dòng vốn đầu tư bên ngoài vào khu vực Đông Nam Á; sự hiện diện của công ty Trung Quốc chỉ chiếm một phần nhỏ so với các công ty từ Mỹ, Nhật Bản và châu Âu; Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của nhiều nước ASEAN, song Bắc Kinh chỉ đóng góp 18% tổng thương mại của khu vực…
Trên thực tế, trong giai đoạn hiện nay, cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc tại Đông Nam Á diễn ra gay gắt trên tất cả các lĩnh vực, tập trung trên một số nội dung chính sau: Đầu tiên, cạnh tranh về quyền lực. Đó là cạnh tranh giữa một siêu cường đang tại vị (Mỹ) với một cường quốc đang lên (Trung Quốc) có nguy cơ làm thay đổi cấu trúc quyền lực tại khu vực mà Mỹ đang chiếm ưu thế. Mặc dù về công khai, cả hai bên đều không muốn điều này xảy ra, nhưng trên thực tế, lo ngại xung đột quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc ngày một hiện hữu. Thứ hai, cạnh tranh vị thế địa – chính trị. Với việc nhấn mạnh khái niệm “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” thay cho “châu Á – Thái Bình Dương” trong công bố của Tổng thống Mỹ Donld Trump tại Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) năm 2017 đã hé lộ phần nào chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Đông Nam Á theo hướng “cân bằng cứng”. Mặt khác, điều đó còn thể hiện cam kết về sự hiện diện của Mỹ – cả trên bình diện ngoại giao và quân sự ở khu vực. Trong khi đó, Trung Quốc thúc đẩy sáng kiến “Vành đai, Con đường” nhằm đối trọng lại Mỹ. Sáng kiến này do Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đề xướng, được coi là một kế hoạch dài hơi để ứng phó với chiến lược “xoay trục” và chính sách “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” của Mỹ. Sáng kiến “Vành đai, Con đường” ra đời đã đẩy cạnh tranh Trung Quốc – Mỹ lên một nấc thang mới và nếu viễn cảnh này trở thành hiện thực thì sẽ là một bước chuyển tiếp mềm cho quá trình chuyển giao quyền lực để sắp xếp lại bàn cờ chính trị thế giới. Để triển khai sáng kiến này, thời gian qua Trung Quốc đã đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đường bộ, đường sắt, đường biển ở các nước Đông Nam Á, đến Trung Á, Nam Á và châu Phi để mở rộng ảnh hưởng của mình. Trước nguy cơ lợi ích địa – chính trị, kinh tế và các lợi ích của mình trong khu vực có thể sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, Mỹ đã tập hợp các cường quốc có liên quan trong chính sách Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương để làm đối trọng với Trung Quốc. Thứ ba, cạnh tranh trong kinh tế – thương mại. Từ đầu năm 2018, những động thái cạnh tranh trên lĩnh vực thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã tăng nhanh và làm nóng bầu không khí quan hệ giữa hai nước vốn đang tốt đẹp hồi cuối năm 2017. Hiện nay, xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ phần lớn là hàng hóa tiêu dùng, trong khi xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc chủ yếu là vốn và công nghệ. Không dễ dàng cho Trung Quốc và Mỹ để chiến thắng bằng một cuộc chiến tranh thương mại mà không làm tổn thương đến lợi ích quốc gia và cũng không thực tế khi tin rằng sự mất cân bằng thương mại song phương có thể bị loại trừ bằng một cuộc chiến tranh thương mại. Trên thực tế, những mâu thuẫn căn bản tiềm tàng giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ tiếp tục diễn ra và ngày càng nổi trội. Thặng dư thương mại của Trung Quốc và Mỹ không chỉ tồn tại trong thị trường sản phẩm cần nhiều lao động, mà còn cả về thị trường sản phẩm có vốn và công nghệ cao. Với sự khởi đầu của một cuộc chạy đua công nghệ cao, sự va chạm thương mại trong các ngành công nghiệp cần vốn và công nghệ cao sẽ trở nên phổ biến. Sự leo thang trong cạnh tranh thương mại Trung Quốc – Mỹ sẽ làm cho hợp tác giữa hai cường quốc này ở vào tình trạng khó khăn chưa từng có. Kinh tế và quan hệ thương mại Trung Quốc – Mỹ đang bước vào một giai đoạn mới và sẽ phát triển theo hướng cạnh tranh ngày càng nhiều. Điều nguy hiểm hơn là việc “trả đũa” về kinh tế giữa hai nước nếu cứ tiếp diễn sẽ kéo toàn bộ hệ thống thương mại của thế giới đi xuống, trong khi nền kinh tế toàn cầu hiện nay vốn đã không khỏe mạnh.
Vấn đề Biển Đông trong quan hệ Mỹ – Trung – ASEAN
Hành động cứng rắn, trái phép của Trung Quốc tại Biển Đông đã khiến các nước ASEAN liên quan đến tranh chấp lo ngại về an ninh của họ cũng như sự ổn định ở khu vực. Nhìn chung, Trung Quốc càng quyết đoán ở Biển Đông thì sức mạnh mềm của Trung Quốc tại Đông Nam Á càng giảm sút. Chính sách “tấn công hấp dẫn” do Trung Quốc tiến hành hơn mười năm về trước tại Đông Nam Á đã không còn phát huy hiệu quả. Mặc dù hầu hết các nước ASEAN đều có lợi ích trong quan hệ kinh tế-thương mại với Trung Quốc, các nước này ngày càng cảnh giác trước ý đồ của Bắc Kinh. Một mặt, các nước ASEAN phát triển quan hệ kinh tế với Trung Quốc; mặt khác, họ tăng cường quan hệ an ninh với Mỹ và hoan nghênh sự hiện diện quân sự của Mỹ tại khu vực. Một vài quốc gia ASEAN cũng đã tiến hành các động thái nhằm hiện đại hóa quân sự, tìm kiếm sự hỗ trợ của Mỹ để cân bằng lại quyền lực ở khu vực này. Do đó, Mỹ càng có nhiều lý do để can dự vào Đông Nam Á và tạo ảnh hưởng đối với vấn đề Biển Đông.
Với Mỹ, một mặt cạnh tranh với Trung Quốc để việc duy trì vị thế lãnh đạo tại châu Á – Thái Bình Dương, mặt khác Mỹ cũng cần hợp tác với Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Trong bối cảnh đó, vấn đề Biển Đông giúp Mỹ có cớ để duy trì can dự tại khu vực và tập hợp lực lượng để đối phó với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Trung Quốc càng hùng mạnh bao nhiêu thì lợi ích của Mỹ tại châu Á cũng sẽ lớn lên bấy nhiêu. Vì thế, Mỹ tái khẳng định lợi ích và lập trường của nước này về vấn đề Biển Đông. Ở khía cạnh khác, chính sách và lập trường của của Mỹ ảnh hưởng lên cả lập trường của những nước khác, đặc biệt là những nước có mối quan hệ gần gũi với Washington. Tiếp sau Mỹ, các quốc gia có lợi ích tại Biển Đông như Nhật Bản, Australia, Ấn Độ và ngay cả một số quốc gia EU khác cũng bày tỏ quan ngại về các diễn biến gần đây tại Biển Đông. Tranh chấp Biển Đông đã trở thành vấn đề quốc tế và được các bên có liên quan đề cập tại nhiều diễn đàn đa phương khác nhau (như ARF, EAS, ASEM…).
Ngoài ra, việc Trung Quốc đe dọa các công ty dầu mỏ và khí đốt quốc tế trong làm ăn với các nước ASEAN đã không ngăn cản được các công ty này nhưng lại tạo cớ cho Mỹ bày tỏ quan điểm của mình về “hoạt động thương mại không bị cản trở” và khiến Mỹ quyết tâm hơn trong việc bảo vệ lợi ích của các tập đoàn Mỹ. Một hậu quả nữa của hành động này đó là nó đã khiến các nước nhỏ hơn tại Đông Nam Á tìm cách hợp tác với các công ty dầu mỏ và khí đốt của các nước lớn như Mỹ, Nga, Nhật Bản và Ấn Độ- những nước mà Trung Quốc không thể đe dọa. Kết quả là Biển Đông đã trở thành vấn đề có sự đan xen lợi ích của các cường quốc và đang ngày càng được quốc tế hóa.
Quan trọng hơn, Biển Đông đã trở thành một trong những vấn đề chính yếu trong quan hệ Mỹ-Trung. Trong những năm trước đây, khi vấn đề Biển Đông luôn là một trong các ưu tiên chính sách đối ngoại của các nước có tranh chấp trong ASEAN thì vấn đề này chỉ là ưu tiên hạng hai trong chính sách của Trung Quốc, ít nhất là so với chính sách của Trung Quốc trong mối quan hệ với các nước lớn. Hiện nay, khi vấn đề Biển Đông trở thành một trong những ưu tiên chính sách đối ngoại của Trung Quốc thì cách tiếp cận của Trung Quốc sẽ trở nên đồng bộ và thống nhất hơn. Do đó, chính sách Biển Đông của Trung Quốc có thể được điều chỉnh một cách linh hoạt khi mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc thấy cần thiết. Diễn biến này có cả tác động tích cực và tiêu cực cho ASEAN, phụ thuộc vào việc liệu các nhà lãnh đạo Trung Quốc quyết định điều chỉnh chính sách mềm mỏng hay cứng rắn hơn trong vấn đề Biển Đông.
Thời gian gần đây, Trung Quốc tỏ ra mềm mỏng trong chính sách Biển Đông. Khi lãnh đạo Trung Quốc nhận ra hậu quả tiêu cực do sự quyết đoán ngày càng tăng gần đây trển Biển Đông, họ đã điều chỉnh chính sách mang tính toàn diện hơn: từ khởi động “cuộc tấn công quyến rũ” tới các nước ASEAN thông qua các biện pháp kinh tế và tài chính cho đến kiềm chế không sử dụng thêm các hành động đe dọa trên biển. Giai đoạn sau đó, không có thêm thông tin nào về việc bắt giữ các ngư dân Việt Nam hoặc tịch thu các tàu cá của Việt Nam như những năm trước cho dù Trung Quốc vẫn tiếp tục tuyên bố lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương trong khu vực ở phía bắc của vĩ tuyến 12 tại Biển Đông trong khoảng thời gian từ tháng 5 cho đến cuối tháng 8 hàng năm. Trung Quốc cũng đang tích cực thúc đẩy đàm phán, ký kết Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) với ASEAN để chứng minh với cộng đồng quốc tế rằng ASEAN và Trung Quốc có thể hợp tác cùng nhau trong việc quản lý tranh chấp và không cần thiết có sự can dự từ bên ngoài vào vấn đề Biển Đông. Kết quả của việc áp dụng một cách tiếp cận toàn diện, đồng bộ và tập trung, chính sách Biển Đông của Trung Quốc là nhằm hướng tới “tranh chấp mở rộng với cường độ thấp”. Chính sách này là sự kết hợp giữa: tăng cường sự hiện diện, kiểm soát của lực lượng dân sự và bán quân sự ở tất cả các khu vực bên trong đường lưỡi bò; kiềm chế sử dụng các lực lượng quân sự; hứa hẹn đầu tư mạnh mẽ về kinh tế đối với các quốc gia ASEAN, đặc biệt là các nước không tranh chấp; và tích cực tăng cường áp lực ngoại giao để ngăn cản ASEAN hình thành một lập trường chung về Biển Đông. Với cách thức này, Trung Quốc tăng khả năng hạn chế Mỹ can dự vào vấn đề Biển Đông.
Mỹ hiện tại đang ở trong một tình thế khó xử. Việc chưa gia nhập Công ước Luật Biển đã làm hạn chế tính chính danh của Mỹ khi chỉ trích các quốc gia khác không tôn trọng luật biển. Sự hiện diện ngày càng tăng của lực lượng hải quân Mỹ không ảnh hưởng nhiều đến cuộc tranh giành quyền kiểm soát tài nguyên ở Biển Đông – chủ yếu diễn ra giữa tàu chấp pháp của các nước ven biển. Việc Trung Quốc thành công khi đẩy lùi Philippines và thiết lập sự hiện diện của nước này ở Bãi cạn Scarborough bất chấp các nỗ lực của Mỹ nhằm giảm bớt căng thẳng cho thấy những giới hạn trong sự can dự của Mỹ. Trên khía cạnh chính trị khu vực, các quốc gia ASEAN hiện lưu tâm nhiều đến mối quan ngại của Trung Quốc hơn là của Mỹ. Về ngoại giao đa phương, tác động từ “tuyên bố của Clinton tại ARF-17” không còn mạnh mẽ như trước, nhất là khi Mỹ không đưa ra bất kỳ quan điểm nào trong những bài phát biểu gần đây tại các diễn đàn khu vực.
Trong khi đó, ASEAN đang phải đối mặt với thách thức lớn nhất kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Vai trò của ASEAN trong việc quản lý các tranh chấp ở Biển Đông có thể bị hạn chế bởi sự chia rẽ trong nội khối và những tác động từ bên ngoài.
Tác động với Việt Nam
Việt Nam có một vị trí địa – chính trị rất quan trọng trong cạnh tranh chiến lược Trung Quốc – Mỹ tại khu vực, nên chính sách mới của Mỹ và Trung Quốc về châu Á bao hàm sự ghi nhận tầm quan trọng của Việt Nam cùng khu vực Đông Nam Á. Việt Nam đang đứng trước những thuận lợi và thách thức không nhỏ. Về thuận lợi, đó là khả năng hợp tác giữa chính quyền của Tổng thống Donld Trump với Việt Nam theo tinh thần hợp tác cùng có lợi là rất lớn. Triển vọng hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng với Mỹ sẽ tiếp tục phát triển, thậm chí Việt Nam có thể sẽ là một “tiêu điểm” trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực, đặc biệt là trong các chính sách của Mỹ ở Biển Đông. Về khó khăn, trong quan hệ thương mại Việt Nam – Mỹ, Việt Nam trong những năm qua đã xuất khẩu nhiều qua Mỹ, vì vậy Việt Nam cũng phải chuẩn bị trước khả năng Mỹ sẽ áp đặt các chính sách bảo hộ, đặt ra các rào cản thương mại đối với Việt Nam để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng Mỹ.
Nhằm giảm thiểu tối đa rủi ro, củng cố và tăng cường tốt nhất các lợi ích cho mình ở khu vực và thế giới, Việt Nam cần: Thực hiện cân bằng về lợi ích trong quan hệ với các nước lớn; cần tạo ra nhiều sự hợp tác, đan xen, ràng buộc lợi ích với các cường quốc này để bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, đồng thời tránh trở thành “con bài” để các nước lớn mặc cả lợi ích với nhau. Tiếp tục chú trọng duy trì đường lối đối ngoại đa phương hiện nay. Tích cực thúc đẩy quá trình hội nhập, xây dựng và phát huy vai trò Cộng đồng ASEAN hơn nữa. Tích cực, chủ động thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã thỏa thuận; nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế. Tiếp tục thực hiện chính sách nhất quán hướng tới xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, nhất là về kinh tế, tôn trọng và ổn định về chính trị và hợp tác về an ninh, đôi bên cùng có lợi.