Tương tự như các năm, Trung Quốc vừa thông báo áp dụng các lệnh “lệnh cấm đánh bắt cá” trên Biển Đông và Biển Hoa Đông, những quy định hết sức phi lý mà nước này tự cho mình có quyền ban hành đối với các vùng biển thuộc nước khác.
Bộ Nông nghiệp Trung Quốc hôm 10/3 thông báo bắt đầu đơn phương thực thi “lệnh cấm đánh bắt cá” trên Biển Đông và Biển Hoa Đông kéo dài bốn tháng từ 12h00 ngày 01/5 đến 12h00 ngày 01/9/2020. Trong phạm vi từ 120 độ vĩ Bắc đến vùng biển giao giữa tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, một phần khu vực Vịnh Bắc Bộ và bãi cạn Scarborough từ 12h00 ngày 01/5 đến 12h00 ngày 16/8/2020. Như vậy so với “lệnh cấm” năm 2019, thời gian “lệnh cấm” năm nay kéo dài hơn 15 ngày. Hãng thông tấn nhà nước Trung Quốc cho biết, gần 9.000 tàu cá của tỉnh Hải Nam cập bến để nghỉ ngơi, bảo dưỡng tàu trong thời gian này. Tuy nhiên những tàu thuyền “có giấy phép” tới đánh bắt ở khu vực đảo thuộc quần đảo Trường Sa vẫn được phép hoạt động. Trung Quốc ngang nhiên áp dụng lệnh cấm này với ngư dân trong nước và ngư dân nước khác, tuyên bố sẽ tăng cường tàu chấp pháp giám sát hai tới ba lần một ngày để bắt và xử phạt các trường hợp bị coi là vi phạm.
Cấm đánh bắt cá là một trong những chính sách phổ biến của nhiều quốc gia giáp biển. Lệnh cấm này nhằm mục đích bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, dựa trên các văn bản pháp luật quốc tế như: Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 (UNCLOS); Hiệp định về các loài cá di cư của Liên hợp quốc 1995; Công ước bảo vệ đa dạng sinh học (CBD); Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật đang bị nguy cấp (CITES) và Công ước về các loài di cư (CMS). Theo các quy định trên, thì lệnh cấm đánh bắt cá được áp dụng trong 2 điều kiện là: Các quốc gia ven biển chỉ có quyền đánh bắt cá trong phạm vi vùng biển mà quốc gia đó chủ quyền và quyền tài phán, thường chủ yếu là vùng đặc quyền kinh tế; Lệnh cấm đánh bắt cá phải dựa trên các số liệu khoa học, trên cơ sở trao đổi thường xuyên với các tổ chức trong khu vực và quốc tế, ngoài ra phải có sự tham vấn của các quốc gia liên quan. Trước khi áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá, thì quốc gia đó phải thông báo công khai, thông tin đầy đủ khu vực, nội dung đánh bắt cá với ngư dân trong nước và tham vấn với các nước trong khu vực.
Việc tham vấn với các quốc gia có liên quan đặc biệt quan trọng và trở thành nghĩa vụ trong trường hợp quy định cấm đánh bắt cá được áp dụng với các loài cá có khả năng di cư xa hoặc sinh sống trên khu vực biển của nhiều quốc gia. Danh sách các loài cá có khả năng di cư xa, đang bị đe doạ hoặc sinh sống tại nhiều quốc gia được quy định rõ tại CBD, CMS và Hiệp định 1995. Ngoài ra, trước khi áp dụng, quốc gia ven biển có nghĩa vụ thông báo công khai, đầy đủ thông tin về quy định cấm đánh bắt cá với ngư dân của nước mình và ngư dân của các nước khác được phép đánh bắt cá trong EEZ của nước mình. Thực tiễn quốc tế cho thấy, EU và nhiều quốc gia như Australia, Mỹ, Ấn Độ, Thái Lan, Philippines … đều từng áp dụng các quy định cấm đánh bắt cá theo thời gian hoặc theo một số loài cá nhất định. Đây là một trong những biện pháp được đánh giá có tính hiệu quả cao giúp bảo tồn, quản lý, duy trì nguồn tài nguyên sinh vật biển và bảo vệ đa dạng sinh học, từ đó thúc đẩy phát triển bền vững. Tuy nhiên, Trung Quốc chỉ sở hữu hợp pháp 13% diện tích Biển Đông, tức là nếu áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá theo quy định quốc tế, thì nước này chỉ được cấm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Nhưng Bắc Kinh lại ngang nhiên tuyên bố chủ quyền đối với 90% khu vực của Biển Đông (hơn 3 triệu km2), vi phạm nghiêm trọng UNCLOS và xâm hại đến vùng đặc quyền kinh tế mà các nước trong khu vực đã tuyên bố chủ quyền.
Từ năm 1999, Trung Quốc hàng năm đều tự ban hành lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông, nơi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ, bất chấp sự phản đối của Việt Nam và các nước trong khu vực. Với việc ban hành lệnh trên, Trung Quốc hy vọng sẽ giải quyết được “cơn khát” về thủy, hải sản đang ngày càng gia tăng của nước này. Theo đánh giá của ông Sébastien Colin – nhà địa lý học, giảng viên Viện Quốc gia ngôn ngữ và Văn minh phương Đông (Inalco) của Pháp, Trung Quốc hiện nay là nước đứng đầu thế giới về nuôi trồng (61%) và đánh bắt (27%) thủy, hải sản. Ngay từ những năm 1980, nhu cầu tiêu thụ thủy, hải sản của Trung Quốc đã tăng mạnh và nó sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới, bởi mức tiêu thụ loại thực phẩm trên mỗi năm tính theo đầu người tại nước này không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, Bắc Kinh không những muốn bảo đảm nguồn cung cho thị trường nội địa 1,4 tỷ dân, mà còn muốn đẩy mạnh xuất khẩu thủy, hải sản ra thị trường thế giới, phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Do đó những năm qua, Trung Quốc phát triển mạnh mẽ nghề nuôi trồng thủy, hải sản để cung cấp cho thị trường nội địa, đồng thời tìm cách giảm bớt đội ngư thuyền để bảo tồn các nguồn thủy, hải sản gần bờ.
Ý đồ của Trung Quốc khi đưa ra các “lệnh cấm” này là nhằm thực hiện tham vọng độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc áp dụng và phối hợp đồng bộ nhiều biện pháp để “giành lấy sự công nhận trên thực tế” yêu sách chủ quyền phi pháp trên Biển Đông. Trung Quốc muốn thông qua việc cố tình giải thích và áp dụng sai các quy định của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế, đặc biệt là UNCLOS để tìm cách hợp thức hóa yêu sách “đường lưỡi bò” ở Biển Đông. Thông qua việc đưa ra “lệnh cấm”, Trung Quốc muốn phản biện lại phán quyết của Tòa Trọng tài (7/2016) bằng cách chứng minh “Trung Quốc là nước đang kiểm soát hiện hữu, lâu dài ở Biển Đông” và các thực thể địa lý (bị Tòa tuyên bố không phải đảo) đó hoàn toàn “thích hợp cho con người ở và có đời sống kinh tế riêng”. Ngoài ra, Trung Quốc muốn thông qua “lệnh cấm” để mặc cả, răn đe, hăm dọa, mua chuộc các quốc gia, các công ty, các cá nhân đang thực hiện các dự án đầu tư khai thác tài nguyên trong phạm vi hoàn toàn nằm trong các vùng biển hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông.
Nhìn chung, quy chế của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam trên các vùng biển của mình, vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS. Lệnh cấm đánh bắt mới của Trung Quốc cũng đi ngược lại tinh thần và lời văn của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (DOC), trái với Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc.