Việc Trung Quốc cải tạo đảo và quân sự hóa các thực thể đang chiếm đóng trái phép ở Biển Đông không chỉ xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, mà còn đe dọa trực tiếp hòa bình, ổn định trong khu vực. Tuy nhiên, những vũ khí Trung Quốc đưa ra những đảo trên đang có nguy cơ biến thành đống sắt vụn trên biển.
Vũ khí thành sắt vụn theo thời gian
Theo phân tích của Giáo sư Robert Farley, Đại học Kentucky (Mỹ) Trung Quốc nhiều năm nay đang muốn tăng cường sức mạnh quân sự ở Biển Đông thông qua việc mở rộng và quân sự hóa các thực thể chiếm đóng trái phép. Tuy nhiên, các công trình quân sự Trung Quốc xây dựng trái phép trên biển Đông được cảnh báo khó duy trì được khả năng chức năng liên lạc, tiếp tế và hậu cần một khi xung đột nổ ra và kéo dài. Chuyên gia Farley cho rằng các “căn cứ nổi” này không thật sự có giá trị như Bắc Kinh vẫn dự liệu và chỉ có ý nghĩa chính trị nhất thời hơn là mang lại lợi thế quân sự vượt trội.
Theo đó, khi sở hữu những căn cứ trên Biển Đông, không thể phủ nhận Trung Quốc có thể khiến hoạt động tuần tra, tự do hàng hải của Mỹ gặp khó khăn. Nhưng nếu xung đột xảy ra, sẽ không quá khó để Không quân và Hải quân Mỹ tiêu diệt những cơ sở này. Một mặt, hiện Trung Quốc đã cho thiết lập hệ thống bệ phóng tên lửa ở các bãi đá Su Bi, Vành Khăn, Chữ Thập, Phú Lâm nhằm mục đích đặt phần lớn khu vực Biển Đông vào tầm tấn công của nước này. Loại tên lửa mà Trung Quốc đưa ra biển Đông là hệ thống đất đối không (như HQ-9 và nhiều khả năng sẽ là tổ hợp S-400 của Nga trong tương lai) cùng tên lửa hành trình trên bộ. Đây là những vũ khí có khả năng đe dọa nhiều loại tàu chiến, chiến đấu cơ của Hải quân Mỹ. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng hệ thống tên lửa của Trung Quốc đang được đặt trên các thực thể nhân tạo giữa biển mà không có bất kỳ biện pháp phòng thủ nào, khiến các thực thể nhân tạo trên sẽ khó lòng trụ nổi trước một đợt tấn công phối hợp. Mặt khác, bên cạnh tên lửa, một số sân bay mà Trung Quốc xây dựng trái phép ở Biển Đông cũng có thể hỗ trợ quân đội nước này dễ dàng định vị và tiêu diệt mục tiêu từ xa với khoảng cách tương đương tên lửa hành trình, nhờ vào hệ thống máy bay tuần tra, chiến đấu dày đặc. Dù vậy, những lợi thế này một lần nữa rất dễ vô hiệu hóa một khi có xung đột bằng một đợt tấn công phủ đầu với tên lửa tầm xa và các đợt tấn công tổng hợp.
Không những vậy, so với các bệ phóng tên lửa hay sân bay, tổ hợp radar của Trung Quốc trên Biển Đông thậm chí còn dễ bị tấn công hơn. Với các điểm yếu cố hữu như khó di chuyển, khó che giấu, radar dễ trở thành mục tiêu cho các cuộc tấn công của quân đội Mỹ như phóng tên lửa (từ tàu ngầm và máy bay tàng hình), tấn công mạng hoặc tác chiến điện tử. Nhìn chung, toàn bộ năng lực quân sự của những thực thể nhân tạo Trung Quốc ở Biển Đông bị phụ thuộc nặng nề vào công tác hậu cần từ đại lục. Các căn cứ tưởng chừng “bất khả xâm phạm” này lại rất dễ cô lập vì hầu hết đều không có kho dự trữ đủ lớn. Khi xung đột xảy ra, việc duy trì khả năng chức năng liên lạc, tiếp tế và hậu cần sẽ là rủi ro và thách thức lớn cho Trung Quốc.
Ngoài việc dễ bị tiêu diệt, thời tiết khắc nghiệt đã nhanh chóng bào mòn và phá hủy các hệ thống vũ khí và cơ sở hạ tầng được Trung Quốc xây dựng và triển khai trái phép ra các đảo nhân tạo ở Biển Đông. Giáo sư Hồ Kì Cao, Đại Học Công Nghệ Quốc Phòng Trung Quốc ở Hồ Nam cho rằng, do Trung Quốc quá vội vàng trong việc bồi đắp, xây dựng các hòn đảo nhân tạo ở Biển Đông trong giai đoạn 2013-2015, cho nên đã phát sinh nhiều yếu tố thách thức chưa được giải quyết. Theo đó, Trung Quốc đã không nghiên cứu đầy đủ môi trường tự nhiên ở Biển Đông cũng như tác động của môi trường trên các cấu trúc kỹ thuật được xây dựng. Việc thiết kế và xây dựng các đảo đá đã được tiến hành theo lịch trình gò bó mà không có được những đánh giá khoa học sâu sát, dài hạn. Bên cạnh đó, các nhân tố tác hại bao gồm nhiệt độ, độ ẩm cao, sương mù, nồng độ muối trong không khí và bức xạ nhiệt lớn khiến tốc độ hao mòn của các trang thiết bị và vật liệu đưa ra Biển Đông quá nhanh. Giáo sư Hồ Kì Cao đã đưa ra dẫn chứng về các cấu trúc bê tông bắt đầu bị rã ra sau chưa đầy 3 năm và các trang thiết bị bằng kim loại ngừng vận hành sau khoảng 1 năm do bị ăn mòn. Những vấn đề trên đã gây ra lo ngại về an toàn và về khả năng các cơ sở của Trung Quốc đứng vững được trước những thảm họa tự nhiên như bão và sóng thần.
Đáng chú ý, Bộ Quốc phòng Mỹ cũng đánh giá rỉ sét khí tài là vấn đề lớn đối với quân đội các nước trên thế giới. Mỹ đã chi tới 21 tỷ USD/năm để đối phó với tình trạng rỉ sét trên các chiến đấu cơ, tàu chiến, tên lửa và vũ khí hạt nhân. Số liệu của quân đội Trung Quốc không được công bố, nhưng Viện khoa học Trung Quốc (CAS) năm 2017 nói hiện tượng ăn mòn đã tiêu tốn của Trung Quốc khoảng 300 tỉ USD vào năm 2014, tương đương 3% GDP.
Biện pháp khắc phục
Để bảo đảm cho các phương tiện đó có thể sử dụng được, Bắc Kinh đã phải cho nghiên cứu để tìm ra các loại chất phủ có khả năng bảo vệ vũ khí và cơ sở hạ tầng mà họ đã xây dựng và triển khai trái phép ở trên các thực thể ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tờ South China Morning Post (SCMP, 01/07/2019) cho biết, các nhà nghiên cứu Trung Quốc đang tìm cách chế tạo ra một chất chống bào mòn mới để bảo vệ vũ khí và công trình xây dựng trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông. Theo đó, Quân đội Trung Quốc đã lên kế hoạch phủ một lớp bảo vệ graphene. Đây là vật liệu mới chỉ được các nhà nghiên cứu Đại học Anh Quốc Manchester phát triển từ năm 2004, cực mỏng nhưng lại cứng hơn thép đến 100 lần. Theo một nhà nghiên cứu ở Thượng Hải, mặc dù vật liệu trên chưa được phép dùng trong lĩnh vực quân sự, nhưng chất phủ đã được ứng dụng trong các lĩnh vực dân sự và đã tỏ ra “cực kỷ hữu dụng” trong ngành công nghiệp hóa chất, khi được dùng để bảo vệ các ống dẫn dầu khí khỏi bị acid, áp suất hay sức nóng cao bào mòn.
Tuy nhiên, Giáo sư Trương Lỗi, thuộc Đại học Khoa Học Công Nghệ Bắc Kinh cho biết, ngay cả chất graphene cũng hàm chứa vấn đề riêng. Graphene thuần chất là một chất dẫn điện tốt, cho nên bất kỳ vết rạn nứt nào trên bề mặt lớp phủ có thể làm gia tăng tốc độ ăn mòn vật chất do dòng điện. Graphene cần phải được kết hợp với các vật liệu khác để làm giảm tính dẫn diện của nó, và việc tìm ra vật liệu phù hợp hoàn toàn không dễ dàng. Còn giáo sư Thôi Cam, Đại Học Dầu Khí Trung Quốc, chuyên nghiên cứu các vật liệu bảo vệ sử dụng chất graphene, cho biết việc sản xuất hàng loạt các tấm carbon mỏng có thể gặp khó khăn bởi các tấm này khó tách rời khỏi nhau. Dù vậy, theo ông Thôi Cam, các vấn đề như trên có thể được xử lý trong các phòng thí nghiệm đang nghiên cứu vật liệu graphene và đó chính là “loại vật liệu của hy vọng”.
Từ những vấn đề trên cho thấy, Trung Quốc vẫn đang rơi vào bế tắc trong việc tìm kiếm vật liệu mới có khả năng bảo vệ số vũ khí triển khai trên các đảo, đá ở Biển Đông không bị ăn mòn, khiến số vũ khí trên có nguy cơ trở thành sắt vụn.