Monday, November 25, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaHọc giả TQ: Xu hướng hợp tác trên Biển Đông

Học giả TQ: Xu hướng hợp tác trên Biển Đông

Giới học giả Trung Quốc luôn ngụy biện cho rằng tình hình Biển Đông về tổng thể ổn định, các bên liên quan cần thúc đẩy hợp tác thiết thực trên biển. Tuy nhiên, đây chỉ là cách nhìn phiến diện, lệch lạc của học giả Trung Quốc.

Xu hướng hợp tác ở Biển Đông

Học giả Trung Quốc xuyên tạc cho rằng sau vụ Tòa Trọng tài về Biển Đông, tình hình Biển Đông tổng thể ổn định, mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông trong ASEAN như Philippines… cũng hòa dịu, điều này đã đem đến “cơ hội mới cho các nước ven biển Biển Đông triển khai hợp tác”. Theo số học giả trên:

Bầu không khí hợp tác tốt chưa từng có từ trước đến nay. Cùng với vụ Tòa Trọng tài về Biển Đông do Philippines đưa ra đã kết thúc, các nước liên quan bắt đầu trở về lý trí, có ý điều chỉnh chính sách, làm dịu tình hình. Sự thay đổi kịch tính nhất là sự thay đổi của quan hệ Trung Quốc – Philippines năm 2016. Từ khi lên cầm quyền đến nay, Tổng thống Philippines Duterte lựa chọn gạt phán quyết của Tòa Trọng tài về Biển Đông sang một bên, chuyển sang thể hiện sự hữu nghị với Trung Quốc, tìm cách phát triển quan hệ hợp tác với Trung Quốc. Tháng 10/2016, Duterte đến thăm Trung Quốc, lãnh đạo hai nước đồng ý khôi phục toàn diện sự trao đổi giữa hai nước, trở về quỹ đạio hiệp thương đối thoại, xử lý ổn thỏa vấn đề Biển Đông. Với đại diện là Philippines, phần lớn các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông đều tích cực trở lại kênh đối thoại và hiệp thương để giải quyết tranh chấp, tạo bầu không khí tốt đẹp cho việc thúc đẩy hơn nữa sự hợp tác thiết thực giữa các nước ven biển Biển Đông.

Đàm phán Bộ quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC) được thúc đẩy ổn định, đem đến bảo đảm quy tắc và trật tự cho sự hợp tác thiết thực ở Biển Đông. Tháng 5/2017, cuộc họp lần thứ 14 các quan chức cao cấp Trung Quốc – ASEAN về thực hiện DOC đã thông qua dự thảo khung COC. Được coi là thành quả mang tính giai đoạn, dự thảo khung COC bao gồm các yếu tố như nguyên tắc, mục tiêu, cam kết cơ bản… đã đặt nền tảng vững chắc cho đàm phán COC. Tháng 8/2017, Hội nghị Ngoại trưởng Trung Quốc – ASEAN được tổ chức tại Philippines đã thông qua dự thảo khung COC. Tháng 11/2017, việc Thủ tướng Lý Khắc Cường đề xuất Trung Quốc và ASEAN chính thức khởi động đàm phán COC khi tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN + 3 (với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) lần thứ 20, nhận được sự hoan nghênh của đông đảo các nước ASEAN. Tuy COC không liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và tranh chấp phân định biên giới biển, nhưng có thể tìm kiếm sự đột phá trên lĩnh vực xây dựng lòng tin trên biên giới biển, nhưng có thể tìm kiếm sự đột phá trên lĩnh vực xây dựng lòng tin trên biển, cung cấp sự bố trí mang tính cơ chế mà các bên đều có thể chấp nhận về quản lý khủng hoảng, điều này chắc chắn có lợi cho việc bảo đảm hòa bình ổn định và lâu dài của Biển Đông, trở thành cơ sở bảo đảm hòa bình của Biển Đông. Đàm phán COC là quá trình các bên liên tục thu hẹp bất đồng, xây dựng lòng tin, nó sẽ đóng vai trò thúc đẩy tích cực đối với hợp tác Biển Đông.

Quá trình xây dựng Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21 sẽ thúc đẩy hợp tác Biển Đông. Tháng 10/2013, khi Chủ tịch Tập Cận Bình tiến hành chuyến thăm cấp nhà nước đến Indonesia đã đưa sáng kiến xây dựng Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21 và Cộng đồng chung vận mệnh Trung Quốc – ASEAN. Ý tưởng hợp tác trên biển xây dựng “Vành đai và Con đường” được đưa ra tháng 6/2017 xác định rõ trong tương lai sẽ thúc đẩy kết nối ngành nghề và hợp tác năng lực sản xuất, khuyến khích triển khai các hoạt động như dịch vụ lợi ích chung trên biển, nghiên cứu học thuật, giao lưu văn hóa, hợp tác khoa học công nghệ… với các tổ chức phi chính phủ ở các nước dọc tuyến. Quỹ hợp tác Trung Quốc – ASEAN, Quỹ Con đường tơ lụa… do Trung Quốc thiết lập sẽ cung cấp nguồn vốn cho các dự án hợp tác trên biển quan trọng. Có thể dự đoán cùng với sự thúc đẩy của Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21, sự hợp tác giữa Trung Quốc và các nước ven biển Biển Đông trong ASEAN trên các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, bảo vệ môi trường sẽ nhận được sự hỗ trợ chính sáhc và nguồn vốn nhiều hơn.

Thành quả nghiên cứu của các tổ chức và cơ quan tư vấn các nước sẽ cung cấp sự hỗ trợ năng lực và chuẩn bị dư luận cho hợp tác Biển Đông. Nhiều năm qua, thành quả nghiên cứu của trong và ngoài nước Trung Quốc về hợp tác Biển Đông rất phong phú: Một là tập trung nghiên cứu đối với các lĩnh vực hợp tác ở Biển Đông, bao gồm các lĩnh vực như quản lý nghề cá, bảo vệ môi trường sinh thái, hợp tác an ninh phi truyền thống như chống cướp biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển…; hai là đề xuất Biển Đông có thể làm theo kinh nghiệm hợp tác của các vùng biển khác trên thế giới. Về hợp tác nghề cá có thể làm theo Địa Trung Hải, vùng biển Caribe, về xây dựng cơ chế hợp tác có thể làm theo mô hình của Hội đồng Bắc Cực hoặc Hiệp ước Nam Cực. Các nghiên cứu liên quan đã tiến hành nghiên cứu và phân tích tính khả thi cho hợp tác Biển Đông, rất nhiều thành quả có thể chuyển hóa thành phương án thực hiện hợp tác. Ngoài ra, các học giả trong và ngoài nước Trung Quốc đều đã nêu rõ nghĩa vụ của UNCLOS là để các nước ven bờ Biển Đông tiến hành nghĩa vụ hợp tác, đồng thời từ các góc độ như bảo vệ tài nguyên môi trường… nhấn mạnh tính cấp bách của việc thúc đẩy hợp tác. Những nghiên cứu này đóng vai trò dẫn dắt dư luận có lợi cho việc hội tụ nhận thức chung hợp tác giữa các giới.

Khó khăn trong việc thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông

Học giả Trung Quốc cố tình biện minh, lảng tránh hành động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông gây đe dọa hòa bình, ổn định trong khu vực, đổ lỗi cho các bên liên quan là “người gây ra căng thẳng” ở Biển Đông, ngang nhiên cho rằng việc triển khai hợp tác Biển Đông có rất nhiều điều kiện có lợi, nhưng cũng đối diện với một số thách thức:

Sự phức tạp vốn có của tranh chấp Biển Đông đã cản trở động lực của hợp tác. Tránh chấp Biển Đông liên quan đến nhiều nước, vừa có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, vừa có tranh cãi phân định biên giới giữa các nước trên một số vùng biển, vấn đề liên quan đến tranh chấp Biển Đông rất phức tạp và nhạy cảm, khó có thể giải quyết triệt để trong tương lai. Hiện nay, hợp tác khu vực Biển Đông có bầu không khí tốt đẹp, nhưng các nước đều không thay đổi chủ trương quyền lợi của mình. Sự hợp tác trên vùng biển tranh chấp Biển Đông chắc chắn liên quan đến vấn đề tỷ lệ phân phối quyền lợi (có sự hợp tác còn liên quan đến luật pháp trong nước), đồng thời tinh thần dân tộc chủ nghĩa và dư luận của các nước có thể sẽ ảnh hưởng đến việc đạt được thỏa thuận hợp tác.

Vấn đề thiếu hụt lòng tin giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực khó có thể xóa bỏ được trong ngắn hạn. Do Trung Quốc tồn tại tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và phân định ranh giới trên biển với các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông như Việt Nam, Philippines…, các vụ đối đầu trên biển từng xảy ra khiến cho các bên liên quan đến tranh chấp có tâm lý cảnh giác, sự tin cậy lẫn nhau tương đối thấp. Cùng với sự trỗi dậy nhanh chóng, ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực Biển Đông liên tục tăng lên, một số nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông sợ Trung Quốc nắm quyền phát ngôn trong xây dựng trật tự khu vực, sự lo lắng của các nước này tăng lên rõ rệt, sự thiếu hụt lòng tin đói với Trung Quốc không ngừng gia tăng, tinh thần dân tộc chủ nghĩa “quan ngại Trung Quốc” ở các nước này cũng tăng. Một mặt các nước xung quanh Biển Đông hy vọng dựa vào tiến trình “Vành đai và Con đường” để thu hút đầu tư và viện trợ nhiều hơn từ Trung Quốc, dựa vào sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc; mặt khác lại lo ngại phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế sẽ làm cho các nước này mất đi quyền chủ động trong các vấn đề như an ninh chính trị…, vì vậy lôi kéo các nước lớn bên ngoài để cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc. Vấn đề thiếu hụt lòng tin tồn tại lâu nay này đã hạn chế việc thúc đẩy hợp tác Biển Đông đi vào chiều sâu.

Sự lôi kéo và gây chia rẽ của các nước lớn bên ngoài như Mỹ, Nhật Bản… đối với các nước tuyên bố chủ quyền. Mỹ coi Biển Đông là công cụ quan trọng để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc, tích cực tăng cường hợp tác an ninh chính trị với các nước tuyên bố chủ quyền như Việt Nam, Philippines, Indonesia…, Mỹ không những là nước viện trợ chiến lược của những quốc gia này, mà trong các trường hợp đa phương còn đề cập đến vấn đề Biển Đông, phê phán Trung Quốc. Mục đích của việc Mỹ liên tục triển khai hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông là muốn động viên tinh thần cho những quốc gia trong khu vực.

Biến số chính trị trong nước của các nước xung quanh Biển Đông là rất lớn, không có lợi cho việc thúc đẩy lâu dài và sự ổn định hợp tác thiết thực của Biển Đông. Nội bộ các nước như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia… đều có tiếng nói khác nhau đối với chính sách của chính phủ với Trung Quốc, tạo thành áp lực cho chính phủ khi hoạch định chính sách hợp tác hữu nghị. Ví dụ như Philippines, trong nước Philippines cũng có sự bất đồng đối với chính sách ngoại gio của Duterte. Tầng lớp tinh hoa chính trị và quân đội trong nước khó có thể thay đổi ý thức hệ thân Mỹ, tổng thống và bộ quốc phòng thỉnh thoảng lại xuất hiện mâu thuẫn về vấn đề Biển Đông. Cho dù Duterte tuyên bố muốn cắt đứt quan hệ đồng minh với Mỹ, tăng cường quan hệ với Trung Quốc, Nga, nhưng Mỹ vẫn là đối tác an ninh không thể thay thế của Philippines, tình hình chống khủng bố của Philippines cũng sẽ thúc đẩy hợp tác an ninh Mỹ – Philippines. Các cuộc thăm dò dư luận cho thấy sự thiện cảm của phần lớn người dân Philippines đối với Mỹ cao hơn Trung Quốc. Tình hình của Philippines không phải là trường hợp đặc biệt ở Đông Nam Á, các nước ASEAN vẫn kiên trì chính sách ngoại giao cân bằng giữa Trung Quốc và Mỹ. Các nước trong khu vực đều dựa vào Trung Quốc về kinh tế, dựa vào Mỹ về an ninh, ngoại giao cân bằng nước lớn của những nước này cũng thường gây ra sự thay đổi thất thường của những nước này trong vấn đề hợp tác Biển Đông.

Cơ chế hóa hợp tác ở Biển Đông

Theo học giả Trung Quốc, từ trước đến nay, vấn đề Biển Đông luôn bị vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ các đảo đá và quyền lợi biển chi phối, tiến triển của hợp tác chậm chạp, hợp tác biển của các nước ven biển thể hiện trạng thái hỗn loạn, nguồn tài nguyên chưa được khai thác có hiệu quả. Tăng cường hiệp thương trao đổi, thúc đẩy hợp tác Biển Đông luôn là nhận thức chung của các nước liên quan, vấn đề nằm ở chỗ làm thế nào để thúc đẩy và tăng cường hợp tác. Tại Hội thảo về Biển Đông thường niên ở Diễn đàn châu Á Bác Ngao năm 2017, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân đã trình bày rõ ràng ý tưởng cảu Trung Quốc đối với cơ chế hợp tác liên quan: “Các nước ven biển Biển Đông nên tích cực làm theo kinh nghiệm thành công của các khu vực khác trên thế giới, với tiền đề không ảnh hưởng đến chủ trương của các bên, có thể khởi xướng và xây dựng cơ chế hợp tác liên quan, xây dựng một diễn đàn hiệu quả để tăng thêm sự tin cậy lẫn nhau, tăng cường hợp tác và chia sẻ lợi ích.

Trong điều kiện có lợi – tình hình căng thẳng của Biển Đông hạ nhiệt, cơ hội hợp tác trong khu vực lớn hơn thách thức, các nước nên nắm bắt cơ hội, thúc đẩy hợp tác Biển Đông, xuất phát từ sự quan tâm chung và lợi ích chung của các nước ven bờ Biển Đông, nghiên cứu tính khả thi và con đường thực hiện của việc xây dựng cơ chế hợp tác. Trong quá trình xây dựng cơ chế hợp tác, các nước ven bờ có thể tăng cường quản lý chung đối với Biển Đông, khai phá tiềm lực hợp tác, đồng thời tăng thêm sự minh bạch và tính có thể dự đoán của chính sách, thúc đẩy sự tin cậy lẫn nhau đi vào chiều sâu, tạo ra môi trường có lợi cho các nước thông qua đàm phán để giải quyết hòa bình tranh chấp Biển Đông, cụ thể:

Chuyển đổi ý thức, thể hiện nguyện vọng chính trị của hợp tác. Hiện nay, Biển Đông tồn tại thực tế vì thiếu hụt lòng tin mà làm cho nguyện vọng hợp tác của các bên trong khu vực tương đối thấp, nhưng sự khác biệt về chế độ chính trị, ý thức hệ và tranh cãi về chủ quyền không phải là nhân tố cản trở hợp tác, mấu chốt vẫn nằm ở việc tìm kiếm sự quan tâm chung của các bên ở Biển Đông, lấy lợi ích chung để triển khai và thúc đẩy hợp tác đi vào chiều sâu. Từ kinh nghiệm hợp tác trên các vùng biển khác cho thấy trong tình hình thiếu hụt lòng tin chính trị, tranh chấp vẫn chưa được giải quyét, các bên cũng có thể triển khai hợp tác an ninh phi truyền thống, điều quan trọng nhất là đưa ra nguyện vọng chính trị của hợp tác. Hiện nay, điều mà phần lớn các nước xem xét nhiều hơn khi đề cập đến vấn đề Biển Đông là các vấn đề an ninh phi truyền thống như chủ quyền lãnh thổ… mà xem nhẹ tầm quan trọng của an ninh phi truyền thống đối với tình hình Biển Đông và quản lý biển. Các nước cần phải hội tụ nhận thức chung, chủ trương một cách hợp lý quyền lợi biển, thực hiện một cách có thiện chí nghĩa vụ theo UNCLOS, đồng thời tránh làm cho tinh thần dân tộc trong nước trở thành trở ngại của hợp tác, từ đó tạo bầu không khí chính trị tốt đẹp cho hợp tác Biển Đông.

Thúc đẩy hợp tác từ lĩnh vực bảo vệ môi trường biển và nghề cá. Xét thấy tình trạng phức tạp của điều kiện địa lý và tranh chấp quyền tài phán trên Biển Đông, trong tình hình các bất đồng lớn vẫn chưa được giải quyết, phải thúc đẩy từ dễ đến khó hợp tác ở khu vực này, bắt đầu tư các lĩnh vực ít nhạy cảm hoặc có nhận thức chung cao như bảo vệ môi trường biển, quản lý tài nguyên nghề cá, cứu trợ nhân đạo…, hoàn thành mục tiêu hợp tác theo từng giai đoạn, cuối cùng xây dựng cơ chế hợp tác hoàn thiện trên các lĩnh vực liên quan. Sự hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm có thể sẽ nảy sinh hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy sự hợp tác trong các lĩnh vực khác. Như trên lĩnh vực hợp tác nghề cá, mục tiêu gần có thể là hợp tác điều tra hiện trạng tài nguyên cá và lượng cho phép được đánh bắt, vạch ra phương án căn bản quản lý hợp tác nghề cá trong khu vực; mục tiêu xa là khi điều kiện thích hợp thiết lập ủy ban quản lý hợp tác khu vực, phụ trách việc hoạch định chính sách nghề cá chung ở Biển Đông. Các nước ven biển Biển Đông vẫn có thể hiệp thương xây dựng cơ chế hợp tác giải quyết vấn đề đánh bắt cá bất hợp pháp, các cơ quan thực thi pháp luật giữa các nước cần phải phối hợp, cùng hành động với các quan chức ngoại giao và chuyên gia pháp luật.

Phát huy vai trò diễn đàn của cơ chế hiện nay. Khu vực Biển Đông có một số cơ chế hợp tác liên quan, như cuộc họp các quan chức cấp cao Trung Quốc – ASEAN về thực hiện DOC và cơ chế nhóm công tác chung, dưới cơ chế này đã thành lập Ủy ban kỹ thuật bảo vệ môi trường và nghiên cứu khoa học biển. Ngoài ra, còn có một số diễn đàn hợp tác biển của Chương trình môi trường Liên hợp quốc, nhưng chức năng tương đối phân tán và ảnh hưởng thì có hạn. Các nước ven biển Biển Đông có thể xem xét thúc đẩy và đạt được công ước khung về hợp tác trên lĩnh vực ít nhạy cảm, đưa hợp tác đơn phương và đa phương hiện nay vào trong hệ thống kết cấu hợp tác khu vực. Có học giả ở khu vực Đông Nam Á cho rằng Trung Quốc đề xuất xây dựng cơ chế hợp tác giữa các nước ven biển Biển Đông là sáng kiến rất tốt, nhưng kiến nghị không nên đi theo con đường khác, mà nên lựa chọn cơ chế hiện nay của Biển Đông để kế thừa và mở rộng.

Coi việc xây dựng Hội đồng hợp tác Biển Đông làm mục tiêu nỗ lực. Trên thực tế có không ít sáng kiến về cơ chế hợp tác an ninh môi trường ở Biển Đông được đưa ra, nhưng điều đáng tiếc là phần lớn những sáng kiến này đều chưa thể trở thành thực tế. Có thể xem xét việc thành lập hội đồng hợp tác Biển Đông là mục tiêu lâu dài, xây dựng hội đồng này thành diễn đàn liên chính phủ do các nước ven biển Biển Đông thông qua hiệp thương hữu nghị để thúc đẩy và tăng cường hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực như kinh tế, bảo vệ môi trường… trong khu vực, đồng thời tích cực tiến hành đối thoại và hợp tác với các quốc gia hoặc tổ chức ngoài khu vực. Cơ cấu tổ chức của hội đồng hợp tác Biển Đông nên chủ yếu bao gồm nước chủ tịch, nước thành viên và nước quan sát. Nước chủ tịch có thể do các nước thành viên đảm nhận luân phiên trong 2 năm. Nước thành viên là các nước ven biển chủ yếu của Biển Đông (Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei, Philippines và Indonesia). Khi mới thành lập, nước chủ tịch hội đồng hợp tác Biển Đông sẽ thành lập ban thư ký, đến thời điểm thích hợp thiết lập ban thư ký lâu dài, cũng có thể xem xét bố trí các nhóm công tác như bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên nghề cá, phát triển bền vững, xây dựng lòng tin… Hội đồng còn thiết lập quỹ hợp tác và phát triển Biển Đông, cung cấp bảo đảm nguồn vốn mang tính cơ chế cho sự vận hành và công tác của hội đồng. Về hoạt động cụ thể của hội đồng hợp tác Biển Đông, giai đoạn đầu có thể làm theo kinh nghiệm thành công của Hội đồng Bắc Cực, với cơ sở là luật mềm, ký tuyên bố hoặc bản ghi nhớ trước. Các nước thành viên là nòng cốt cảu hội đồng hợp tác Biển Đông, mọi quyếtt định của hội đồng phải do hội nghị quan chức cấp cao quyết định, đồng thời tất cả các nước thành viên đạt được sự nhất trí mới có thể thông qua. Nếu điều kiện cho phép, trên cơ sở hiệp thương thống nhất các nước thành viên có thể cho các nước ngoài khu vực xin gia nhập hội đồng hợp tác Biển Đông với vị thế nước quan sát viên lâu dài, quan sát viên chính thức hoặc nước quan sát đặc biệt, nước quan sát không có quyền bỏ phiếu quyết sách.

Nhìn chung, cách giới học giả Trung Quốc biện minh cho yêu sách chủ quyền phi pháp và hành động ngang ngược của Bắc Kinh ở Biển Đông rất dễ khiến người đọc bị ngộ nhận và hiểu sai về bản chất và hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông. Trên thực tế, xuất phát từ những hành vi ngang ngược, thách thức cộng đồng quốc tế, cũng như khiêu khích trắng trợ hệ thống luật pháp quốc tế cho thấy Trung Quốc mới là kẻ gây rối và không tuân thủ luật pháp quốc tế, sử dụng sức mạnh cơ bắp để xâm chiếm biển, đảo của nước khác.

RELATED ARTICLES

Tin mới