Sự liên kết giữa các khu vực doanh nghiệp còn yếu và rời rạc không chỉ ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp mà còn giảm hiệu quả xuất khẩu, tham gia các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới.
Doanh nghiệp Việt Nam không thể lớn được
“Tôi rất mong muốn các doanh nghiệp không chỉ Vingroup, Viettel mà các doanh nghiệp Việt Nam mình gắn kết được với nhau để làm việc.”, Chủ tịch Vingroup Phạm Nhật Vượng từng chia sẻ về sự liên kết của doanh nghiệp Việt Nam trong một buổi trò chuyện cách đây vài năm. Ông Vượng lấy ví dụ về các doanh nghiệp Trung Quốc rất gắn kết, hỗ trợ và bảo trợ nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp Hong Kong. Thậm chí họ còn có triết lý “không có doanh nghiệp Hong Kong phá sản”, bởi khi một doanh nghiệp gặp khó sẽ có nhiều doanh nghiệp đồng hương cùng quay lại giúp đỡ, gánh vác cùng.
“Mình cũng chưa cần phát triển đến mức độ như vậy vì cũng chưa khả thi nhưng ít nhất mức độ nào đấy mình đoàn kết giúp đỡ nhau, mình giảm được cái tôi trong mình. Cái tôi của các đại gia Việt lớn lắm.
Ví dụ 2 doanh nghiệp Việt ngồi với nhau không ai chịu nhường ai. Với doanh nghiệp tư nhân kể cả các doanh nghiệp vừa vừa nhỏ nhỏ cũng vậy. “Mình phải làm vua cơ!”. Làm kiểu gì thì làm ngồi với nhau nhưng nói chuyện hở ra chỗ nào ngon là ông kia quay về chiến luôn.
Thì làm sao mình bỏ qua những chuyện đó vì làm thế không bao giờ mình lớn được. Mọi người chỉ nghĩ đến ngày thịnh mà không nghĩ đến ngày suy, không nghĩ đến lúc trái gió trở trời mình hoàn toàn gặp khó khăn thì lúc đấy ai sẽ giúp mình? Tôi đang ngon thì tôi phải là vua còn các ông yếu kém quên các ông đi. Không ai chịu nhường ai, không ai chịu chấp nhận ai. Nếu như thế tôi cho rằng doanh nghiệp Việt Nam không thể lớn được.”, ông Vượng đánh giá.
Thực tế về điểm yếu trong liên kết của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam đã từng được nhiều chuyên gia chỉ ra. Theo Tiến sĩ Đoàn Duy Khương, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Kinh doanh Asean (ASEAN-BAC) hầu hết các doanh nghiệp chỉ tập trung cho lợi ích riêng lẻ, kiểu “mạnh ai người ấy làm” hoặc “làm tất ăn cả”, chỉ quan tâm đến thương hiệu riêng, sản phẩm riêng của mình, chứ không thấy rõ được lợi ích to lớn của việc xây dựng thương hiệu cho ngành hàng.
Tiến sĩ Khương cho rằng những hạn chế này là những lý do khiến các doanh nghiệp Việt yếu thế, không thể cạnh tranh với các tập đoàn, công ty nước ngoài ngay chính trên sân nhà, đấy là chưa nói đến thị trường thế giới. Những doanh nghiệp lớn mạnh hẳn thì có thể tự lo cho mình, còn hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều hoạt động manh mún, thiếu đoàn kết, và có lúc cạnh tranh không lành mạnh.
Khó khăn khi gia nhập vào chuỗi giá trị
Việc thiếu liên kết không chỉ khiến doanh nghiệp tăng trưởng mà còn khiến quá trình hội nhập kinh tế của toàn bộ doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn. Tại diễn đàn “Nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt trước thời cơ, thách thức từ các Hiệp định thương mại thế hệ mới” tổ chức hồi tháng 10, thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Duy Đông cho biết quá trình hội nhập kinh tế cho thấy doanh nghiệp nước ta vẫn đang gặp khó khăn khi tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu do năng lực cạnh tranh hạn chế.
Trong 3 nhóm lý do chính, đáng chú ý nguyên nhân thứ hai theo ông Đông là do các doanh nghiệp Việt còn rất hạn chế hợp tác, hỗ trợ và nâng đỡ nhau để trở thành các đối tác lâu dài, hướng tới mục tiêu phát triển chung.
Theo tổng hợp của dự án LinkSME, các công ty Nhật Bản, một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, mua sắm khoảng 32,4% các dịch vụ và sản phẩm đầu vào từ các nhà cung cấp địa phương.
Con số này thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp FDI của Nhật tại các nước láng giềng ví dụ như Trung Quốc (67,8%), Thái Lan (57,1%) và Indonesia (40,5%). Trong số các doanh nghiệp cung cấp cho các công ty FDI của Nhật Bản tại Việt Nam, 58,9% các doanh nghiệp đó là các công ty FDI có trụ sở tại Việt Nam. Chỉ có 13% nguồn dịch vụ, sản phẩm đầu mua tại địa phương được cung cấp bởi các doanh nghiệp Việt Nam.
Còn theo báo cáo của Ngân hàng thế giới, mối liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân trong nước và DN nước ngoài, giữa các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp lớn là không đáng kể và còn hết sức hạn chế. Ví dụ trong ngành công nghiệp ô tô có 20 doanh nghiệp lắp ráp ô tô lớn đang hoạt động, chỉ có 81 nhà cung cấp cấp 1 và 145 nhà cung cấp cấp 2 và cấp 3. Trong khi đó Thái Lan chỉ có 16 nhà lắp ráp ô tô lớn nhưng quốc gia này có tới 690 nhà cung cấp cấp 1 và 1.700 nhà cung cấp cấp 2 và cấp 3.
“Sự liên kết giữa các khu vực doanh nghiệp còn yếu và rời rạc không chỉ ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp mà còn giảm hiệu quả xuất khẩu, tham gia các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới”, thứ trưởng Trần Duy Đông nhấn mạnh.