Qua quá trình xác minh, cơ quan chức năng phát hiện Nguyễn Phương Hằng – Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Đại Nam mang 2 quốc tịch. Vậy việc xử lý đối với người mang hai quốc tịch phạm tội như thế nào?
Quốc tịch là mối liên hệ pháp lý giữa cá nhân đối với nhà nước nhất định, biểu hiện ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đó được pháp luật của Nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện. Quốc tịch gắn với một người kể từ khi người đó được sinh ra trừ một số trường hợp vì những lý do nhất định có thể có sự thay đổi quốc tịch.
Một người có quốc tịch của một nước thì họ có quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước mà mình mang quốc tịch như thế nào? Trong trường hợp một người mang quốc tịch 2 nước thì pháp luật sẽ xử lý ra sao?
Phóng viên VOV đã có cuộc trao đổi với Luật sư Nguyễn Văn Bình – Giám đốc Công ty Luật Aladin về vấn đề này.
PV: Thưa Luật sư, việc xác định một người có quốc tịch Việt Nam được quy định như thế nào? Người có quốc tịch Việt Nam có thể được chứng minh bằng các loại giấy tờ gì?
Ông Nguyễn Văn Bình: Quốc tịch là sự thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa một cá nhân và một quốc gia có chủ quyền, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân. Mỗi một quốc gia sẽ có nguyên tắc cơ bản để xác định quốc tịch của một cá nhân.
Theo Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì ở Việt Nam, việc xác định quốc tịch được áp dụng theo nguyên tắc huyết thống, đây là nguyên tắc cơ bản, ngoài ra còn một số quy định khác để xác định quốc tịch Việt Nam.
Căn cứ Điều 14 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014), một người được xác định là có quốc tịch Việt Nam nếu có một trong 5 căn cứ sau đây:
Căn cứ thứ nhất là do sinh ra, bao gồm các trường hợp:
+ Trường hợp 1 là: Có cha và mẹ đều là công dân Việt Nam.
+ Trường hợp 2 là: Có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam còn cha không rõ là ai; Có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài và cha mẹ thỏa thuận bằng văn bản con mang quốc tịch Việt Nam vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con.
+ Trường hợp 3 là: Có cha mẹ đều là người không quốc tịch, có nơi thường trú tại Việt Nam hoặc có mẹ là người không quốc tịch, có nơi thường trú tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai.
– Căn cứ thứ hai là do nhập quốc tịch Việt Nam đối với công dân nước ngoài và người không quốc tịch đang thường trú ở Việt Nam.
– Căn cứ thứ ba là được trở lại quốc tịch Việt Nam đối với người đã mất quốc tịch Việt Nam.
– Căn cứ thứ tư là thuộc các trường hợp quy định tại Điều 18, 35 và 37 Luật Quốc tịch Việt Nam, bao gồm: Một là, trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ. Hai là, con chưa thành niên sống cùng với cha mẹ mà cha mẹ nhập hoặc trở lại quốc tịch Việt Nam. Ba là, trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi; Trẻ em là người nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi.
– Căn cứ thứ năm là theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Về giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam, theo quy định tại Điều 11 Luật Quốc tịch Việt Nam, bao gồm một trong các giấy tờ sau: Một là, Giấy khai sinh; Hai là, Giấy chứng minh nhân dân/căn cước công dân; Hộ chiếu Việt Nam; Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam, Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi đối với trẻ em là người nước ngoài, Quyết định cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
PV: Hiện nay, nước ta có cho phép công dân có 2 quốc tịch? Vậy trong trường hợp nào công dân Việt Nam được quyền có hai quốc tịch?
Ông Nguyễn Văn Bình: Theo quy định tại Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam, thì về nguyên tắc, Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ một số trường hợp được quy định tại Luật này.
Như vậy, Việt Nam vẫn cho phép công dân có thể có nhiều quốc tịch, nhưng chỉ trong 4 trường hợp đặc biệt sau đây:
– Thứ nhất: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam (quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật Quốc tịch Việt Nam).
– Thứ hai: Người nhập quốc tịch Việt Nam mà được Chủ tịch nước cho phép không phải thôi quốc tịch nước ngoài (theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam).
– Thứ ba: Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam mà được Chủ tịch nước cho phép không phải thôi quốc tịch nước ngoài (theo quy định tại khoản 5 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam).
– Thứ tư: Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi (theo quy định tại Khoản 1 Điều 37 Luật Quốc tịch Việt Nam).
Như vậy, trong một số trường hợp đặc biệt như đã nêu ở trên, công dân Việt nam có thể có hai quốc tịch mà không trái với quy định của pháp luật Việt Nam.
PV: Pháp luật Việt nam có quy định trường hợp nào thì bị tước quốc tịch Việt Nam không thưa Luật sư?
Ông Nguyễn Văn Bình: Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) có quy định về các trường hợp có thể bị tước quốc tịch Việt Nam tại Điều 31. Theo đó, Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài hoặc người đã nhập quốc tịch Việt Nam dù cư trú ở trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam nếu có hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều có thể bị tước quốc tịch Việt Nam.
PV: Mới đây bị can Nguyễn Phương Hằng được xác định có 2 quốc tịch là Việt Nam và Cộng hòa Cyprus. Vậy việc xử lý đối với người mang hai quốc tịch phạm tội có gì khác biệt? Với trường hợp của Nguyễn Phương Hằng, pháp luật sẽ xử lý như thế nào?
Ông Nguyễn Văn Bình: Như tôi đã chia sẻ, nguyên tắc quốc tịch của Việt Nam là chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ các trường hợp đặc biệt theo quy định tại Luật Quốc tịch. Do đó, đối với những trường hợp cá nhân có cả quốc tịch Việt Nam và quốc tịch nước ngoài nhưng không thuộc các trường hợp được mang 02 quốc tịch theo quy định của pháp luật Việt Nam là vi phạm pháp luật và Nhà nước Việt Nam vẫn xem xét xử lý các hành vi vi phạm pháp luật như công dân Việt Nam.
Mặt khác, căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì “Bộ luật Hình sự áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Vì vậy, người có 01 hay 02 quốc tịch phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam cũng sẽ bị xử lý như nhau.
Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì đối với người phạm tội mà thuộc trường hợp được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế thì vấn đề trách nhiệm hình sự của người đó sẽ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Đối với trường hợp của Nguyễn Phương Hằng, nếu có đủ căn cứ chứng minh Nguyễn Phương Hằng có hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam như những công dân Việt Nam.
PV: Thưa Luật sư, ngoài Nguyễn Phương Hằng, trước đây Phan Văn Anh Vũ (tức Vũ nhôm) cũng từng khai trước tòa là mình có 2 quốc tịch. Từ thực tế trên, theo Luật sư có nên sửa đổi lại quy định cho phép công dân Việt Nam mang hai quốc tịch không?
Ông Nguyễn Văn Bình: Theo tôi, Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành đã rất hạn chế đối với việc công dân Việt Nam đồng thời mang quốc tịch nước ngoài. Mặt khác, như đã trả lời ở câu hỏi trước, người có quốc tịch Việt Nam, người có quốc tịch nước ngoài hay người có 2 quốc tịch mà phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam đều sẽ bị xử lý theo quy định của Pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp được miễn trừ ngoại giao.
Những trường hợp như Nguyễn Phương Hằng hay Phan Văn Anh Vũ thực tế có hai quốc tịch nhưng không thuộc trường hợp được phép có hai quốc tịch theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam, đây là hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam, không được pháp luật Việt Nam công nhận.
Vì vậy, theo quan điểm cá nhân, tôi thấy không cần thiết phải thiết chặt thêm quy định cho phép công dân Việt Nam mang hai quốc tịch. Điều quan trọng là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần có quy định trong nước hoặc ký kết các thỏa thuận quốc tế để ra soát và có cơ chế để xác minh, kiểm tra, giám sát, yêu cầu khai báo, trao đổi thông tin đối với những trường hợp công dân Việt Nam có thêm quốc tịch nước ngoài mà không thuộc trường hợp được phép có hai quốc tịch để xử lý theo quy định, tránh những rắc rối, vấn đề pháp lý phức tạp liên quan đến ngoại giao, bảo hộ công dân trong quá trình xử lý vi phạm đối với những người này (nếu có).
PV: Xin cảm ơn Luật sư Nguyễn Văn Bình.
T.P