Kỳ
I
Cách đây nhiều
thế kỷ, người Phương Tây đã soạn nhiều tài liệu liên quan đến hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa, trong đó có một số bản đồ, tư liệu và sách cổ ghi nhận Nhà nước Việt Nam đã
thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này từ lâu đời.
I. CÁC TƯ LIỆU, SÁCH VÀ BẢN ĐỒ CỔ
CỦA NGƯỜI PHƯƠNG TÂY VỀ CHỦ
QUYỀN CỦA VIỆT NAM
ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
Nhật ký của Công ty Ấn độ – Hà Lan dẫn trong bài “La Compagnie des
Indes Neerlandaises et l’ Indochine” (Công ty Ấn độ Hà Lan và Đông Dương)
của J.M.Buch, đăng trên tạp chí của Trường Viễn Đông bác cổ của Pháp ở Đông Dương (Bulletin de l’ Ecole
Francaise d’ Extrême Orient, tome XXXVI, năm 1936, trang 134) có chép về những sự kiện các tàu biển thuộc Công
ty Đông – Ấn bị nạn tại quần đảo Hoàng Sa thuộc xứ Đàng Trong như sau :
“Ngày 20 tháng 7 năm 1634, dưới thời Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635), ba chiếc tàu
Hà Lan tên Veehuizen,
Schagen và Grootebroek, từ Batavia (Nam Dương) đến Touron cùng nhổ neo đi
Formose (Đài Loan).
Ngày 21 thì gặp bão ngoài khơi, nên
lạc nhau. Chiếc tầu Veen-huizen tới Formose ngày 2 tháng 8, chiếc Schagen tới ngày 10 cùng tháng.
Riêng chiếc Grootebroek bị đắm gần quần đảo Paracels, ngang với bắc vĩ tuyến
17. Trong số hàng hóa trị giá 153.690 florins, thủy thủ chỉ cứu được một số trị giá 82.995 florins, kỳ dư
bị chìm đắm kể cả chiếc tầu và 9 người bị mất tích.
Số hàng hóa cứu được, họ cất dấu
nơi an toàn tại đảo Paracels. Thuyền trưởng Huijich Jansen và 12 thủy thủ đi
bằng thuyền nhỏ vào duyên hải xứ Đàng Trong. Họ hy vọng sẽ tìm được một thuyền
lớn để ra cứu 50 thủy thủ còn ở lại trên đảo. Thuyền trưởng đem theo 5 thùng
bạc và 3.570 réaux đựng trong 17 bao. Khi họ vào tới đất liền, họ không được
đối đãi như ý muốn. Tất cả bạc và tiền bị tịch thâu bởi viên chức đặc trách hải
môn và thương thuyền, mà người Hà Lan gọi là Ongangmij.
Sau đó, họ được phép trở lại
Paracels trên một chiếc tầu Nhật Bản tên Kiko, mà họ mua đứt, để đón 50 thủy
thủ còn nơi đảo và lấy 4 thùng bạc còn lại. Tất cả đều được 3 chiếc tàu khác
tên là Bommel, Goa và Zeeburg (cũng bị bão mà vào núp miền duyên hải xứ Đàng
Trong) chở về Batavia. Tại đây viên thuyền trưởng Jansen làm báo trình về việc
thuyền Grootebroek bị đắm tại Paracels và sự tịch thâu 23.580 réaux bởi nhà
chức trách xứ Đàng Trong.
Hai năm sau, dưới thời Chúa Thượng
Nguyễn Phước Lan (1635-1648), ngày 6 tháng 3 năm 1636, hai chiếc tầu Hà Lan khác tới Tou-ron.
Thương gia Abraham Duijeker tiến về Faifo để gặp quan
Trấn thủ; sau đó ông ta đi Thuận hóa (Senoa) yết kiến Chúa Thượng, để xin giao thương, đặt
thương điếm và đòi số tiền 23.580 réaux đã bị tịch thâu năm kia.
Còn Thượng Vương tiếp đón Duijeker
rất trọng hậu; nhưng Ngài truyền rằng: “Những việc khiếu nại đó đã xảy ra dưới
thời Vua cha, nay Chúa không hề hay biết ; vả lại viên chức thuế quan Ongangmij
đã bị cách chức, tịch thu gia sản (vì tội đã ăn hối lộ tới 340.000 lượng bạc
trong thời kỳ tại chức), đã bị xử trảm và phanh thây rồi ”. Chúa Thượng xét
rằng Ngài đã xử sự công minh lắm; nay chớ nhắc lại làm chi. Ngài cũng cam đoan
từ nay pháp luật rất nghiêm minh và sẽ không bao giờ xảy ra những việc đáng
tiếc như vậy nữa.
Để bù vào sự thiệt thòi đó, Chúa
Thượng chấp thuận cho người Hà Lan được tự do giao thương với xứ Đàng Trong, và miễn cho họ sắc thuế
neo bến và các tặng phẩm, (II accordait aux Hollandais le droit de libre
échange dans le pays, les exemptait pour l’avenir des droit d’ancrage et des
présent usuels).
Vì lẽ đó mà từ năm 1636, một thương điếm (comptoir
commer-cial) của người Hà Lan đã được thiết lập tại Hội-an (Faifo) do Abraham Duijeker làm
Trưởng điếm.”[1]
Nhật ký Batavia của Công ty Ấn độ –
Hà Lan trích dẫn trên ghi nhận quần đảo Hoàng Sa (Pracel) lúc đó đã được đặt
dưới sự kiểm soát của Chúa Nguyễn. Thuyền trưởng và thủy thủ tàu Grootebrock được Chúa Nguyễn
cho phép để trở lại quần đảo Hoàng Sa.
2. Nhật
ký chuyến đi quần đảo Hoàng Sa của các giáo sĩ Phương Tây ở Trung Quốc (1701)
Trong bài “Mystère des atolls
– Journal
de voyage aux Paracels” (Điều huyền bí của các vành đai san hô – Nhật ký chuyến đi
quần đảo Paracels) của Jean Yves Clayes, đăng trên Tạp chí Indochine (Đông
Dương), số 46 năm 1941, tác giả trích dẫn đoạn nói về nỗi kinh hoàng khi qua
quần đảo Paracels năm 1701 trong những lá thư của các giáo sĩ phương Tây ở
Trung Quốc như sau:
“Tàu nhổ neo, gió rất thuận và
chỉ trong một thời gian ngắn đã đến ngang tầy mỏm đá Paracel. Paracel là một
quần đảo thuộc Vương quốc An Nam. Đó là bãi đá ngầm khủng khiếp có đến hàng
trăm dặm, rất nhiều lần đã xảy ra các nạn đắm tàu ở đó – Nó trải dọc theo bờ
biển xứ Cochinchina (Đàng Trong). Tàu Amphitrite lần đầu tiên du hành đến Trung
Quốc đã suýt nữa thì bị đắm… có chỗ lối đi chỉ có 4,5 sải nước, nếu thoát
được nguy hiểm ở đây thì như có một phép lạ… Bị đắm tàu trên những tảng đá
khủng khiếp đó hoặc bị lạc mất không còn tí nguồn dự trữ nào thì hầu như cũng
như nhau mà thôi…”.
Như vậy, tài
liệu này đã ghi nhận quần đảo Paracel thuộc Vương quốc An Nam.
3. Nhật
ký của Pierre Poivre (1744)
Pierre Poivre là một giáo sĩ kiêm
thương nhân Pháp đến xứ Đàng Trong vào khoảng thập kỷ 40 thế kỷ XVIII đã chứng
kiến quang cảnh kinh thành Huế mà Võ Vương (Nguyễn Phúc Khoát) đã hoàn thành và
xây dựng năm 1744 và được chúa Nguyễn Phúc Khoát tiếp năm 1750. Poivre đã viết
tập nhật ký
về xứ Đàng Trong mang tên “Mémoire sur La Cochinchine” (Paris 1744).
Năm 1885, tập hồi ký được in lại trong tạp chí “Revue de l’ Extreme
Orient” (tập III) với tên tiêu đề “Journal de Poivre”. Nội dung
tập “nhật ký” được thuật lại trong bài “Une tentative ignorée d’
e’tablissement francais en Indochine au XVIII siècle. Les vues de L’Amiral
d’Estaing” của Louis Malleret, đăng trong tạp chí BSEI Nouvelle Série,
Tome XVII, No1, Sài Gòn 1942.
Khi mô tả về kinh thành Phú Xuân do
Nguyễn Phúc Khoát xây dựng, Louis Malleret thuật lại về súng thần công bố trí
trên tường thành như sau:
“Những khoảng cách giữa các
cột có đặt 1200 khẩu súng thần công, trong số 800 khẩu bằng đồng thau, phần lớn
các khẩu súng đó “bắn đạn loại” 4 livres, một vài khẩu loại 6 và có
khẩu loại 24 livres” mang theo phù hiệu Bồ Đào Nha và niên hiệu 1661.
Người ta cũng thấy ở đây những hòm nhỏ đựng vũ khí của vua Campuchia do người
Bồ Đào Nha đúc, cũng như những khẩu thần công bằng sắt cỡ đạn 6 livres, có
trang trí chữ ghi của Công ty Đông Ấn Hà Lan, những khẩu súng này đã thu lượm được
ở quần đảo Paracels trong số các di vật của các tàu từ Trung Hoa qua bị
đắm”.
Tài liệu này
đã ghi nhận việc quản lý đối với quần đảo Hoàng Sa dưới
thời chúa Nguyễn.
4. Ghi
nhớ của Bá tước M.d. Estaing về cuộc hành quân tập kích vào Huế (1754)
Đây là một bản ghi nhớ về kế hoạch
tập kích bất ngờ kinh thành Phú Xuân mà d’Estaing, đô đốc hải quân Pháp dự định
tiến hành vào
năm 1758 – 1759 nhưng không được thực hiện.
Bản ghi nhớ này đã được in trong
cuốn “La geste Francaise en Indochine” (Hàng động của Pháp ở Đông
Dương) của G.Taboulet, tập I, trang 145 -151 (Paris 1955), nhan đề “Le
comte d’ Estaing médite sur un coup de main sur Huế” (Ghi nhớ của Bá tước
d’Estaing về cuộc hành quân tập kích vào Huế”.
Trong bài viết, tác giả thuật lại
tình hình kinh thành Huế được ghi trong bản “Ghi nhớ” của d’Estaing
như sau:
“Kinh thành Huế được xây dựng
trên bờ một con sông, khi nước triều lên thì các luồng của tàu có thể tới đó
được. Không có thành luỹ gì cả, chỉ được bao quanh bằng một bức tường gạch đơn
giản cao khoảng 8, 9 bộ, chung quanh có một nơi để rất nhiều đại bác, nhiều
khẩu là được để trang trí hơn là để sử dụng. Ngưòi ta cho rằng số súng đó có
thể tới 400 khẩu, một phần được đúc bằng gang, một số lớn là của Bồ Đào Nha
được lấy đem về từ các vụ đắm tàu trước kia ở quần đảo Paracels”.
Tài liệu này cũng ghi nhận hành động thực hiện chủ quyền của Chúa Nguyễn đối với quần
đảo Hoàng Sa.
5. Ghi chép về xứ Đàng Trong (1820)
Ghi chép về xứ Đàng Trong (Notice sur la Cochinchine) là bản tường trình về
nước Việt Nam đầu đời Nguyễn do Jean Baptiste Chaigneau viết vào tháng 5 năm 1820, khi ông rời Việt
Nam về Pháp sau 25 năm sống bên cạnh Vua Gia Long, đăng trên tờ
Bulletin des Amis du vieux Huế, 1923. J.B. Chaigneau có tên Việt Nam là Nguyễn
Văn Thắng, một người Pháp lấy vợ Việt Nam, từng giúp Gia Long chống lại phong
trào Tây Sơn. Trước khi rời Việt Nam về Pháp, Chaigneau đã được Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao Pháp (quận công Richelieu) viết thư yêu cầu ông này báo cáo tình
hình cụ thể về Việt Nam. Mở đầu bản tường trình, Chaigneau mô tả về hình thể nước
Việt Nam như sau:
“Nước Cochinchina[2]
mà Vua ngày nay đã lên ngôi hoàng đế, gồm xứ Cochinchina đích thực (xứ Đàng
trong cũ), xứ Tonkin (Đàng Ngoài cũ), một phần vương quốc Campuchia, vài hòn đảo
có người ở không xa bờ và quần đảo Paracels hợp thành bởi những đảo nhỏ,
ghềnh và đá hoang vắng. Chỉ đến năm 1816, vị hoàng đế bây giờ mới giành quyền sở
hữu quần đảo này” (trang 275).[3]
6.Ghi chép về địa lý xứ Đàng Trong (1837)
Ghi chép về địa lý xứ Đàng Trong (Note on the Geography
of Cohinchina) là bài viết của Giám mục Jean Louis Taberd
đăng trên Tạp chí The Journal of the Asiatic Society of Bengal (tập VI,
năm 1837).
Đây là bài viết vắn tắt về Việt Nam, nhưng tác giả cũng dành một đoạn viết về
Paracels:
“Paracel hay Paracels là một mê cung đầy những đảo nhỏ,
đá và bãi cát trải trên một khu vực đến vĩ độ 11 độ Bắc, 107 độ Kinh tuyến Đông
Paris. Một số nhà hàng hải vượt qua được một phần của những bãi đó nhờ vào sự
may mắn hơn là sự dũng cảm. Nhưng một số khác thì thất bại trong cuộc hành
trình. Người Cochinchina gọi quần đảo này là Cồn Vàng. Tuy quần đảo này không
có gì ngoài tảng đá và những cồn lớn, nó hứa hẹn nhiều bất tiện hơn thuận lợi, Vua Gia Long vẫn nghĩ
rằng ông sẽ tăng thêm lãnh thổ bằng cách chiếm thêm cái đất buồn bã này. Năm
1816, ông đã tới long trọng cắm cờ và chính thức chiếm hữu mà hình như không một
ai tranh giành với ông” (trang 745).[4]
Bài viết của giám mục J.L. Taberd đã đồng nghĩa
“Paracels” với “Bãi Cát Vàng” và ghi nhận quần đảo này đã
được Vua
Gia Long “chính thức chiếm hữu” năm 1816.
[1] Thái Văn Kiềm, Những sử liệu Tây Phương chứng minh chủ
quyền của Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa từ thời Pháp thuộc đến nay,
Tập san sử địa, Số 29, năm 1974.
[2] Từ ngữ “Cochinchine” vốn
được người phương Tây dùng để chỉ xứ Đàng
trong khi nước Đai Việt còn bị chia làm hai miền. Sau khi nước Việt Nam thống
nhất họ vẫn dùng từ ngữ này để chỉ nước Việt Nam.
[3] Thái Văn Kiểm trích từ Le Mémoire sur la Cochinchine de Jean Eaptiste
Chagneau, pu-blié et annoté par A.
Salles, Inspecteur des Colonies en retraite, in Bulletin des Amis du Vieux Hue
No2, Avrit-Juin 1923).
[4] Nguồn: Thư viện quốc gia Pháp.
Mỹ Đức