Trong làn khói hương phảng phất, nấm mộ
chiêu hồn của người anh hùng Phạm Hữu Nhật nằm lặng lẽ trên triền đồi Lý Sơn.
Cách nay 172 năm, từ chính hòn đảo này, Phạm Hữu Nhật đã giong thuyền ra biển
Đông để khẳng định chủ quyền Tổ quốc.
Cuộc ra đi hùng tráng
Bia chủ quyền VN ở Hoàng Sa được dựng vào những năm
1930 (ảnh chụp tại phòng lữu trữ tư liệu Hoàng Sa, Đà Nẵng) – Ảnh: V.Hùng
chụp lại. Nguồn: TTO
Lần nào ra đảo Lý Sơn, tôi cũng viếng
khu mộ gió không hài cốt của những người lính Hoàng Sa thuở nào. Lần này, mộ
chánh đội trưởng Phạm Hữu Nhật đã được dời về nằm kế bên khu lăng mộ thủy tổ họ
Phạm trông ra biển Đông. Đôi câu đối khắc ghi trên cột đá tưởng nhớ bậc tiền
hiền vẫn còn đậm nét: “Tổ tiên khai sáng xây cơ nghiệp. Con cháu đời đời
nguyện phát huy”. Ngày ngày, người dân Lý Sơn vẫn lên đồi tưới tắm và chăm
sóc nơi yên nghỉ của các bậc tiền nhân.
Tôi ngồi lặng nghe các hậu duệ của tộc
họ Phạm kể lại chuyện xưa. Trong ký ức truyền lưu từ cha ông họ, Phạm Hữu Nhật
vẫn mãi mãi là một anh hùng, dù bây giờ chứng tích hiện vật về ông không còn
nhiều nữa. Sử liệu cũ cũng kể rằng năm Minh Mạng thứ 14 (1833), vua chỉ thị cho
Bộ Công chuẩn bị việc phái người ra dựng bia chủ quyền ở Hoàng Sa. Đại Nam thực
lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 165, đã chép rằng từ năm Minh Mạng thứ 17
(1836), Bộ Công tấu vua hằng năm cho cử người ra Hoàng Sa cắm cột mốc, dựng bia
chủ quyền và đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ. Vua Minh Mạng phê trong bản tấu của
Bộ Công ngày 12-2-1836 rằng: mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm
bài gỗ dài 4,5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc làm cột mốc…
Phạm Hữu Nhật đã vinh dự được chọn
phụng mệnh vua đi khẳng định chủ quyền biển đảo Hoàng Sa. Quyển 6, Đại Nam
thực lục chính biên chép: Vua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai suất
đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi, đem theo mười bài gỗ làm dấu
mốc. Mặt bài khắc chữ: Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân chánh đội
trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật vâng mệnh ra Hoàng Sa, xem xét, đo đạc, đến đây
lưu dấu để ghi nhớ…
Ngày nay, trong nhiều sử liệu cũ và ký
ức của các cụ già ở Lý Sơn vẫn khắc ghi câu chuyện được lưu truyền từ tổ tiên
rằng đó là cuộc ra đi hùng tráng. Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật đã
dẫn đầu 5-6 chiếc thuyền ra biển Đông. Mỗi thuyền chở khoảng mười người với
mười tấm bài gỗ và mang theo lương thực đủ ăn sáu tháng, đi suốt ba ngày ba đêm
thì tới bãi Cát Vàng, tức quần đảo Hoàng Sa bây giờ. Cập vào đảo nào, họ cắm
cột mốc, dựng bia chủ quyền ở đảo đó và đo đạc thủy trình, trồng thêm cây cối,
thu lượm hải vật, rồi mới về tấu trình hoàn thành nhiệm vụ.
Không ai rõ Phạm Hữu Nhật đã đi bao
nhiêu chuyến. Nhưng có một điều chắc chắn rằng lần cuối cùng ông đi mãi không
về, nên người xưa ở Lý Sơn đã phải ngậm ngùi an táng ông bằng nấm mộ chiêu hồn
không có hài cốt. Tổ quốc cũng khắc ghi công ơn của ông bằng việc đặt tên Hữu
Nhật cho một hòn đảo lớn nằm ở phía nam quần đảo Hoàng Sa. Diện tích của đảo rộng
khoảng 0,32km2, có nhiều san hô, cây lùm và cỏ tranh. Mỗi năm vào mùa xuân, hạ,
con vích biển thường lên đây đẻ trứng, đem lại dấu hiệu sinh tồn cho đảo.
Phạm Hữu Nhật là ai?
Hậu duệ Phạm
Thoại Tuyền thắp hương trên mộ
anh hùng Phạm Hữu Nhật – Ảnh: Quốc Việt.
Nguồn: TTO
Tuyền, một trong những hậu duệ đời nay của người anh hùng Phạm Hữu Nhật, dẫn
tôi lang thang khắp đảo Lý Sơn để tìm lại dấu tích người xưa.
Thắp nén nhang trên nấm mộ tiền nhân,
ông Tuyền xúc động kể rằng ba năm trước đã tình cờ phát hiện tông tích Phạm Hữu
Nhật trong chuyến sưu tầm tài liệu để viết hồ sơ di tích đình Bà Roi (Nguyễn
Tiên Điều), người được xem như phúc thần của cù lao Ré. Các tài liệu phổ hệ,
sắc phong, linh vị… viết bằng chữ Hán Nôm trong nhà thờ của hậu duệ Phạm Văn
Đoàn đã nói đến một số người trong tộc họ đi lính Hoàng Sa không về như Phạm
Văn Sanh, Phạm Văn Nhiên, Phạm Văn Triều…
Theo ông Tuyền, từ đầu, phổ hệ ghi rõ:
Thủy tổ tộc họ Phạm (Văn) tại xã An Vĩnh tên Phạm Văn Tuệ là thế hệ thứ 4 của
ông Phạm Văn Nghiêm ở xã Tịnh Kỳ, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi có gốc ở Cao Bằng, Bắc
bộ. Trong đó, ông Phạm Văn Triều, con của ông Phạm Văn Nhiên và bà Dương Thị
Lãng, là thế hệ thứ tư của thủy tổ họ Phạm (Văn) ở cù lao Ré. Và tên Phạm Văn
Triều chính là tên húy của Phạm Hữu Nhật. Điều này đã được minh chứng qua linh
vị và trên bia mộ cổ có ghi: “Phục vì vong Cao Bình Quận Phạm Hữu Nhật thần
hồn chi linh vị sanh Giáp Tý niên 1804, Giáp Dần 1854 tôn điệt phụng tự”.
Ngôi nhà xưa nằm khuất trong vườn kiểng
của mẹ ông Tuyền là bà Phẩm, một hậu duệ mấy đời của Phạm Hữu Nhật. Năm nay đã
85 tuổi, dòng thời gian làm nhạt nhòa nhiều ký ức, nhưng bà vẫn hào hứng ôn lại
công đức tiền nhân. Bà kể khi phát hiện chính xác Phạm Hữu Nhật tức là Phạm Văn
Triều, người đã được tộc họ thờ tự lâu nay, bà và các con cháu đã không thể ngủ
được vì xúc động. Từ chân núi Hòn Vung, mộ của Phạm Hữu Nhật được di dời về bên
lăng mộ thủy tổ họ Phạm (Văn) của mình và cũng gần bên bia tưởng niệm các liệt
sĩ Hoàng Sa. Người anh hùng vì quốc vong thân, thi thể trao cho biển cả, nấm mộ
chiêu hồn xưa chỉ có đất cát thay người. Buổi lễ đưa vị tiền nhân về nơi an
nghỉ, mọi người rưng rưng bốc nắm cát dưới huyệt mộ thay cho hài cốt. Một con
thuyền bằng giấy được thả xuống biển ngay trước nấm mộ ông để nhắc mọi người
ghi nhớ cuộc ra đi khẳng định chủ quyền Tổ quốc thuở nào.
Không chỉ có tộc họ và chính quyền,
người dân trên đảo Lý Sơn, mà nhiều người từ tận những nơi xa xôi trong đất
liền cũng lặn lội ra đảo, thắp nén nhang tiễn đưa người anh hùng về nơi yên
nghỉ mới. Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã đã cảm khái đề bia trước mộ: “Phạm Hữu
Nhật đã đưa binh thuyền đi xem xét, đo đạc, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền tại
Hoàng Sa. Cũng từ đây trở thành lệ hằng năm.
Sự kiện này là một trong những bằng
chứng không thể chối cãi về sự chiếm hữu thật sự của Nhà nước VN tại quần đảo
Hoàng Sa! Hoàng Sa đi dễ khó về! Các miếu thờ lính Hoàng Sa cũng như lễ khao lề
lính Hoàng Sa hằng năm vào ngày 20-2 âm lịch luôn có linh vị: Phục vì vong Cao
Bình Quận Phạm Hữu Nhật thần hồn chi linh vị, là bằng chứng hùng hồn hậu thế
khắc ghi công đức Phạm Hữu Nhật cùng các vị vị quốc vong thân để xác lập và
thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa!”./.
Quốc Việt (theo Tuổi Trẻ)