Thursday, October 31, 2024

Công bố Luật Biển Việt Nam

BienDong.Net: Ngày 16/7, Việt Nam đã tiếp tục công bố 7 Luật
và 2 Nghị quyết đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3, thông qua, trong đó
có Luật Biển.

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn cho biết việc thông
qua Luật Biển Việt Nam là một hoạt động lập pháp quan trọng nhằm hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý liên quan đến biển, đảo. Lần đầu tiên Việt Nam có một văn bản luật qui định đầy đủ chế độ
pháp lí các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam theo đúng
Công ước Luật Biển năm 1982. Đây là cơ sở pháp lí quan trọng trong việc quản lí,
bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo Việt Nam.

Việt Nam là một quốc gia ven biển, có bờ biển dài hơn 3.200
km, kinh tế biển và các ngành liên quan đến biển đóng góp lớn vào nền kinh tế
đất nước. Cùng với việc việc khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp
biển, đảo bằng các biện pháp hòa bình, Nhà nước VN đã chuyển một thông điệp
quan trọng tới toàn thế giới: Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế, tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982,
quyết tâm phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và
trên thế giới.

Việc xây dựng Luật Biển Việt Nam bắt đầu từ năm 1998 trên cơ
sở các qui định của Công ước Luật Biển năm 1982, có tham khảo các thông lệ quốc
tế, trong đó, có thực tiễn của các nước và yêu cầu phát triển kinh tế, an ninh,
quốc phòng của VN.

Luật Biển Việt Nam
bao gồm 7 chương và 55 điều:

Chương I: Những quy định chung

Gồm có 7 điều quy định về phạm vi điều chỉnh, việc áp dụng pháp luật, giải
thích từ ngữ, nguyên tắc quản lý và bảo vệ biển, chính sách quản lý và bảo vệ
biển, hợp tác quốc tế về biển, quản lí nhà nước về biển.

a. Ðiều 1 nêu rõ phạm vi điều chỉnh của luật là đường cơ sở, nội thủy, lãnh
hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo,
quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền
chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt
Nam; phát triển kinh tế biển, quản lí và bảo vệ biển, đảo. Việc khẳng định chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong luật là sự
tiếp nối lập trường nhất quán của Việt Nam trong vấn đề này, đã được nêu rõ
trong Nghị quyết năm 1994 của Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Luật Biển
năm 1982 và Luật Biên giới quốc gia năm 2003.

b. Về nguyên tắc và chính sách quản lí, bảo vệ biển, luật Biển Việt Nam nêu rõ
quản lí và bảo vệ biển được thực hiện thống nhất theo qui định của pháp luật
Việt Nam, phù hợp với Hiến chương Liên hiệp quốc và các điều ước quốc tế khác
mà Việt Nam là thành viên.

c. Luật Biển Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ trương nhất
quán của Nhà nước là giải quyết các tranh chấp liên quan biển, đảo với các nước
bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp Công ước Luật Biển năm 1982, pháp luật và
thực tiễn quốc tế. Nhà nước VN đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển với các nước,
các tổ chức quốc tế và khu vực, trong đó nêu nhiều lĩnh vực hợp tác cụ thể về
biển và đại dương.

d. Về cơ chế quản lí biển, quản lí biển là một công việc lớn và phức tạp, có
liên quan đến nhiều bộ, ngành và địa phương trong cả nước. Ðể bảo đảm nguyên
tắc quản lý biển thống nhất, đồng bộ và hiệu quả, luật Biển Việt Nam qui định
Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về biển trong phạm vi cả nước; các bộ, cơ
quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc Trung ương
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lí nhà nước về biển.

alt

Các vùng biển theo Công ước Luật biển 1982 với những quy định pháp lí khác
nhau. Luật Biển Việt Nam
đã đưa ra các điều khoản tuân thủ theo Công ước.
Ảnh: Wikipedia.

Chương II: Vùng biển Việt Nam

Gồm có 14 điều quy định về việc xác định đường cơ sở, chế độ pháp lí của các
vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam (nội thủy, lãnh hải) và các vùng biển
thuộc quyền chủ quyền của VN (vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa), đảo, quần đảo và chế độ pháp lí của đảo.

a. Về đường cơ sở, luật Biển Việt Nam
quy định đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ
sở thẳng đã được Chính phủ công bố. Hiện nay VN đã có đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ
đến đảo Thổ Chu. Một số khu vực hiện nay chưa có đường cơ sở như Vịnh Bắc Bộ và
các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thì Chính phủ sẽ xác định và công bố sau khi
được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

b. Nhà nước VN thực hiện chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải Việt Nam. Nội thủy
của nước VN là vùng nước nằm giữa bờ biển và đường cơ sở. Lãnh hải của nước VN
rộng 12 hải lí kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Vùng trời,
đáy biển, lòng đất dưới đáy biển của nội thủy và lãnh hải cũng thuộc chủ quyền
của VN. Nhà nước VN thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Vùng đặc quyền kinh tế của VN rộng 200 hải
lí kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Thềm lục địa của VN được
xác định căn cứ vào phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất ra đến mép ngoài
cùng của rìa lục địa. Ở nơi mép ngoài cùng của rìa lục địa chưa đến 200 hải lý
thì phần thềm lục địa mở đến 200 hải lí. Ở nơi mép ngoài cùng của rìa lục địa
vượt quá 200 hải lý, thềm lục địa của ta được mở rộng đến 350 hải lí theo các
điều kiện và thủ tục Công ước Luật Biển năm 1982 quy định. Nhà nước VN đã căn
cứ vào quy định của Công ước, tiến hành khảo sát thực tế đáy biển, xác định
giới hạn thềm lục địa ở những khu vực mở rộng ra ngoài 200 hải lí. Năm 2009,
Chính phủ đã gửi báo cáo về ranh giới thềm lục địa mở rộng của Việt Nam ở hai khu
vực cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa xem xét.

 alt

Chiến sĩ Việt Nam trên đảo Trường Sa lớn ( ảnh
BienDong.Net )

Phù hợp với Công ước Luật Biển năm 1982, Luật Biển Việt Nam qui định tàu,
thuyền nước ngoài được quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải VN. Tàu quân
sự nước ngoài thông báo trước khi đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam. Luật Biển
Việt Nam cũng qui định quyền tự do hàng hải, quyền tự do đặt dây cáp, ống dẫn
ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc
quyền kinh tế Việt Nam; cũng như quyền lắp đặt dây cáp, ống dẫn ngầm trên thềm
lục địa Việt Nam. Việc thực hiện các quyền và hoạt động nói trên phải phù hợp
Công ước Luật Biển 1982, các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên và
luật pháp Việt Nam về biển.

c. Ðối với các đảo, quần đảo, luật Biển Việt Nam khẳng định Nhà nước VN thực
hiện chủ quyền trên các đảo, quần đảo Việt Nam. Phù hợp điều 121 của Công ước
Luật Biển 1982, Luật Biển Việt Nam qui định đảo thích hợp cho đời sống con
người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp
giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; còn đảo đá không thích
hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Chương III: Hoạt động trong vùng biển Việt Nam

Gồm có 20 điều qui định về nội hàm của việc đi qua không gây hại, nghĩa vụ khi
thực hiện quyền này, qui định tuyến hàng hải và phân luồng giao thông.

Luật Biển Việt Nam qui định rõ những hành vi mà tàu, thuyền nước ngoài không
được làm khi đi qua lãnh hải Việt Nam. Cụ thể là không được đe dọa hoặc sử dụng
vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; đe dọa
hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc
gia khác; thực hiện các hành vi trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên hiệp quốc; luyện tập hay diễn tập
với bất kỳ kiểu, loại vũ khí nào, dưới bất kì hình thức nào; thu thập thông tin
gây thiệt hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam; tuyên truyền nhằm gây hại
đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam; phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện
bay lên tàu thuyền; phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện quân sự lên tàu,
thuyền; bốc, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu thuyền trái với
qui định của pháp luật Việt Nam về hải quan, thuế, y tế hoặc xuất nhập cảnh; cố
ý gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển, đánh bắt hải sản trái phép; nghiên
cứu, điều tra, thăm dò trái phép v.v… Tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ qui
định pháp luật Việt Nam liên quan đến an toàn hàng hải, bảo vệ thiết bị và hệ
thống bảo đảm hàng hải, đường dây cáp ngầm, bảo tồn tài nguyên biển, giữ gìn
môi trường biển.

Luật Biển Việt Nam cũng nêu rõ Chính phủ qui định công bố tuyến hàng hải và
phân luồng giao thông trong lãnh hải, khi cần thiết lập vùng cấm tạm thời hoặc
vùng hạn chế hoạt động trong lãnh hải Việt Nam. Luật Biển Việt Nam qui định tàu
ngầm và các phương tiện đi ngầm khác khi ở trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam
phải nổi trên mặt nước. Trong chương này, luật Biển Việt Nam cũng qui định về
vấn đề tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ, về giữ gìn bảo vệ tài nguyên và môi trường
biển, về nghiên cứu khoa học biển; đồng thời nêu cụ thể những hành vi bị cấm,
như đe dọa chủ quyền, quốc phòng, an ninh Việt Nam; khai thác tài nguyên, lắp
đặt sử dụng thiết bị công trình, khoan đào, nghiên cứu khoa học một cách trái
phép; tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí chất nổ, chất độc hại, mua
bán người, hoạt động cướp biển, phát sóng trái phép.

Chương IV: Phát triển kinh tế biển

Chương này có năm điều quy định các nguyên tắc phát triển biển, các ngành kinh
tế biển ưu tiên phát triển, vấn đề quy hoạch phát triển kinh tế biển, khuyến
khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế biển trên các đảo và hoạt động trên
biển.

Các nguyên tắc phát triển kinh tế biển là phục vụ xây dựng và phát triển kinh
tế – xã hội của đất nước; gắn với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia, quốc
phòng, an ninh, trật tự an toàn trên biển; phù hợp với yêu cầu quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường biển; gắn với phát triển kinh tế – xã hội của các
địa phương ven biển và hải đảo. Luật Biển Việt Nam qui định Nhà nước ưu tiên
tập trung phát triển các ngành kinh tế biển: tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế
biến dầu, khí và các loại tài nguyên, khoáng sản biển; vận tải biển, cảng biển,
đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, phương tiện đi biển và các dịch vụ hàng hải
khác; du lịch biển và kinh tế đảo; khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản;
phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học – công nghệ về khai
thác và phát triển kinh tế biển; xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển.

Luật Biển Việt Nam là luật cơ bản về biển của nước VN. Ngoài Luật Biển Việt
Nam, VN đã có các luật chuyên ngành như luật Dầu khí, luật Thủy sản v.v…
Những nội dung cụ thể của các ngành kinh tế biển được điều chỉnh trong các luật
chuyên ngành.

Chương V: Tuần tra, kiểm soát trên biển

Chương này có ba điều qui định về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển;
nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển.

Luật Biển Việt Nam qui định rõ các lực lượng có thẩm quyền tuần tra, kiểm soát
trên biển, gồm: Hải quân nhân dân, Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phòng, Công an
Nhân dân, các đơn vị quân đội đóng trên các đảo, quần đảo, các lực lượng tuần
tra kiểm soát chuyên ngành hải quan, thủy sản, giao thông vận tải, môi trường,
y tế và kiểm dịch. Các lực lượng này hoạt động theo nhiệm vụ được qui định cụ
thể trong luật pháp Việt Nam và được trang bị cờ, sắc phục, phù hiệu có dấu
hiệu đặc trưng. Ngoài các lực lượng chuyên trách nêu trên, khi cần thiết, các
cơ quan có thẩm quyền sẽ huy động sự tham gia của các lực lượng bán chuyên
trách.

Chương VI: Xử lý vi phạm

Chương này có bốn điều qui định về dẫn giải và địa điểm xử lý vi phạm, biện
pháp bảo đảm tố tụng, xử lý vi phạm, biện pháp đối với đối tượng là người nước
ngoài… nhằm đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, đúng pháp luật giữa các cơ quan
có trách nhiệm xử lí vi phạm luật Biển Việt Nam.

Chương VII: Ðiều khoản thi hành

Luật Biển Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013. Chính phủ sẽ ban hành
những qui định hướng dẫn thi hành các điều khoản được giao ở trong luật.

Toàn văn Luật Biển Việt Nam

BDN ( theo các báo quốc nội )

RELATED ARTICLES

Tin mới