Tiết lộ mới cho thấy thủ đô Hà Nội từng suýt trở thành mục tiêu của một cuộc tấn công bằng tên lửa hạt nhân của Mỹ trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962.
Ông John Bordne, một cựu sĩ quan không quân Mỹ hiện sống ở Blakeslee, thuộc bang Pennsylvania, đã phải giữ kín bí mật của mình trong hơn 5 thập niên.
Chỉ đến gần đây ông mới được không quân Mỹ cho phép kể lại câu chuyện mà nếu chính thức được xác nhận sẽ chiếm vị trí đáng kể trong một danh sách dài những sơ suất vốn có thể đẩy thế giới vào một cuộc chiến tranh hạt nhân.
Sẵn sàng trong sợ hãi
Theo tạp chí Bulletin of the Atomic Scientists (Mỹ), câu chuyện bắt đầu vào sáng sớm 28.10.1962, thời điểm cao trào của cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Sĩ quan Bordne khi đó bắt đầu ca trực của mình đầy vẻ lo sợ. Vào thời điểm đó, nhằm đối phó với việc Liên Xô bí mật bố trí tên lửa nhắm vào Mỹ tại Cuba, toàn bộ lực lượng Mỹ được đặt trong tình trạng báo động Sẵn sàng phòng thủ cấp 2 (DEFCON 2), nghĩa là họ sẵn sàng chuyển sang chế độ DEFCON 1 chỉ trong vài phút.
Một khi ở chế độ DEFCON 1, tên lửa có thể được phóng đi trong vòng 1 phút kể từ thời điểm đơn vị trực chiến nhận được chỉ thị.
Bordne khi đó đang phục vụ tại 1 trong 4 căn cứ tên lửa bí mật trên đảo Okinawa (Nhật Bản). Mỗi căn cứ có 2 trung tâm kiểm soát phóng tên lửa, với những tổ phụ trách bao gồm 7 thành viên. Với sự hỗ trợ của các thành viên tổ trực, mỗi sĩ quan phụ trách khai hỏa của mỗi trung tâm chịu trách nhiệm quản lý 4 tên lửa hành trình Mace B được gắn các đầu đạn hạt nhân Mark 28.
Đầu đạn này có sức công phá tương đương 1,1 megaton TNT, tức mạnh hơn 70 lần quả bom hạt nhân Mỹ từng ném xuống Hiroshima hay Nagasaki. Với tầm bắn khoảng 2.400 km, từ Okinawa có thể bắn tới Hà Nội, Bắc Kinh, Bình Nhưỡng và các căn cứ của Liên Xô ở Vladivostok.
Vài giờ sau khi bắt đầu ca trực của mình, nhóm của Bordne bắt đầu kiểm tra các dữ liệu thời tiết và các chuỗi mã hướng dẫn được Trung tâm tác chiến tên lửa trên đảo Okinawa gửi đến hằng ngày. Thường một chuỗi mã được gửi đi không trùng khớp với các con số mà tổ phụ trách có trong tay.
Nhưng lần này thì khác: lần đầu tiên trong lịch sử, các mật mã đã trùng khớp. Số phận của thế giới như ngàn cân treo sợi tóc khi chỉ huy của Bordne là đại úy William Bassett mở chiếc túi của mình để xem liệu chuỗi ký tự mà ông đang nắm giữ có trùng khớp với phần cuối cùng của chuỗi mã hay không. Và chúng đã hoàn toàn trùng khớp. Điều này cho phép ông mở phong bì để đọc các chỉ thị phóng tên lửa tại căn cứ của mình. Tuy nhiên, ông này đã từ chối thực thi lệnh tấn công hạt nhân.
Bản lĩnh của chỉ huy
Khi viên đại úy xem lại danh sách 4 mục tiêu cần phóng tên lửa, ông kinh ngạc khi thấy có đến 3 mục tiêu không nằm ở Liên Xô. Theo Hãng Sputnik, ngoài căn cứ Vladivostok, ba mục tiêu tấn công còn lại là Hà Nội, Bắc Kinh và Bình Nhưỡng.
Bordne nhớ lại lúc đó có điện thoại nội bộ vang lên, và một sĩ quan phụ trách phóng tên lửa khác cho hay danh sách mục tiêu của anh ta có 2 mục tiêu không thuộc lãnh thổ Liên Xô. Đại úy Bassett sinh nghi tại sao lại có những nước khác là mục tiêu tấn công của Mỹ thay vì Liên Xô, và cho rằng có vẻ như đã có một sự nhầm lẫn nào đó.
Theo quy trình, căn cứ phải nhận được lệnh chuyển sang chế độ DEFCON 1, mức báo động cao nhất trước khi tung đòn tấn công hạt nhân. Vì vậy, Bassett quyết định không khai hỏa mà gọi cho Trung tâm tác chiến tên lửa và giả vờ như chưa nghe rõ mệnh lệnh phóng, với hy vọng rằng điều này sẽ giúp những người ở trung tâm truyền lệnh có thời gian nhận ra sơ suất và có biện pháp khắc phục.
Trong khi đó, tại trung tâm phóng tên lửa của Bassett, các nhân viên đã sẵn sàng với ngón tay đặt trên nút bấm, chuẩn bị khởi động vũ khí hạt nhân vì cho rằng chế độ DEFCON 1 đã được áp dụng. Ông Bordne kể lại rằng đại úy Bassett lặp lại yêu cầu ngưng phóng và ra lệnh 2 lính vũ trang sẵn sàng bắn gục viên trung úy nếu anh ta cố gắng khởi động tên lửa mà không được sự cho phép bằng khẩu lệnh từ chính ông.
Một hồi sau, Bassett nhận được điện thoại của Trung tâm chiến dịch tên lửa truyền đạt chỉ thị mới là không phóng tên lửa. “Không ai trong chúng ta được phép trao đổi bất cứ điều gì đã xảy ra tối nay, ý tôi nói là mọi thứ. Không trao đổi ở doanh trại, quán bar, hay ngay ở đây, tại căn cứ này. Các bạn thậm chí không được viết thư về nhà để kể lại chuyện này. Tôi đang nói hoàn toàn rõ ràng về vấn đề này, đúng không?”, ông Bassett được cho là đã nói với các nhân viên dưới quyền sau khi cuộc khủng hoảng đi qua.
Chính sự đa nghi và thận trọng của ông Basset đã giúp Liên Xô tránh được một đòn tấn công hạt nhân và quốc tế không phải chứng kiến một cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 3. Ông Bassett qua đời vào năm 2011, và trong cuộc đời của mình, ê kíp của ông đã tuân thủ nghiêm ngặt mệnh lệnh trên. Vì thế dư luận vẫn “mù tịt” về sự cố đáng sợ cho đến ngày hôm nay.