Tuesday, April 23, 2024
Trang chủGóc nhìn mớiCuộc chiến 17-2-1979:Tại sao TQ không dám sử dụng không quân?

Cuộc chiến 17-2-1979:Tại sao TQ không dám sử dụng không quân?

Cuộc chiến tranh xâm lược năm 1979, Bắc Kinh có nhắm đến Hà Nội không, tại sao họ không huy động không quân và tên lửa tham chiến?

Về cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc năm 1979, rất nhiều bạn đã thắc mắc rằng, ngay từ đầu Bắc Kinh có ý định đánh xuống Hà Nội hay không? Ở miền Bắc lúc đó vẫn còn Quân đoàn 1, tại sao lại không tham chiến?

Trước và trong cuộc chiến, Trung Quốc không có ý đồ đánh xuống Hà Nội

Cho đến thời điểm hiện tại, có thể nhận định rằng, theo kế hoạch ban đầu và cả các bước phát triển về sau, Trung Quốc không có ý định và cũng không thể đánh xuống Hà Nội.

Chiến tranh đã lùi xa 37 năm, Trung Quốc cũng đã công khai nhiều tài liệu có liên quan đến cuộc chiến tranh xâm lược nước ta ngày 17-2-1979. Theo những tiết lộ từ phía Trung Quốc và các chuyên gia phân tích quốc tế, vào thời điểm đó Trung Quốc không có ý đồ đánh sâu xuống Hà Nội.

Theo lời kể của Châu Đức Lễ (Zhou Deli), nguyên Tham mưu trưởng Quân khu Quảng Châu, ngày 23-11-1978, Bộ Tổng tham mưu Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp xây dựng một kịch bản mới về một cuộc chiến tranh quy mô đối với Việt Nam, được tuyên bố là cuộc chiến “phản kích tự vệ” trên biên giới, nhằm đáp trả “các cuộc tấn công xâm lấn biên giới của Việt Nam”.

Cuộc chiến được xác định sẽ kéo dài trong thời gian vài tuần, nhằm vào các vị trí quân sự chính của Việt Nam và các thành phố đối diện qua biên giới với các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây, cũng là 2 mặt trận chính của cuộc chiến tranh.

Còn trong bài viết “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment” (tạm dịch: “Nhìn lại cuộc chiến tranh Trung-Việt năm 1979”) của Xiaoming Zhang, vào ngày 7-12-1978, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp, ra quyết định phát động một cuộc “chiến tranh hạn chế” trên tuyến biên giới phía nam Trung Quốc để “dạy cho Việt Nam một bài học”.

Chỉ thị của Quân ủy Trung ương Trung Quốc nêu rõ, cuộc chiến tranh được hạn chế nghiêm ngặt trong vòng bán kính 50km từ đường biên giới chia làm 3 giai đoạn.

Cuoc chien 17-2-1979:Tai sao Trung Quoc khong dam su dung khong quan?

Bản đồ 2 mặt trận tấn công chính là Quảng Tây và Vân Nam cùng các mũi tấn công

Giai đoạn đầu từ 17 đến 25 tháng 2. Trong thời gian này, quân đội Trung Quốc dự tính sẽ phá vỡ tuyến phòng ngự đầu tiên của Việt Nam và đánh chiếm các thị xã Cao Bằng và Lào Cai, các thị trấn biên giới quan trọng là Cam Đường và Đồng Đăng, cửa ngõ ra vào Lạng Sơn.

Giai đoạn hai từ 26 tháng 2 đến 5 tháng 3, lực lượng Trung Quốc ở Quảng Tây sẽ tập trung tấn công vào Lạng Sơn và các vùng phụ cận phía tây, trong khi các cánh quân vu hồi ở Vân Nam sẽ giao chiến với sư đoàn quân Việt Nam ở vùng Tây Bắc Sa Pa, và Phong Thổ.

Trong giai đoạn cuối từ 6-3 đến 16-3, quân Trung Quốc sẽ nỗ lực tiêu diệt nốt các lực lượng còn sót lại trong quá trình phá hủy hệ thống quân sự tại khu vực biên giới với Trung Quốc, trước khi hoàn thành việc rút quân vào ngày 16 tháng 3.

Như vậy, ngay từ đầu Trung Quốc đã không xác định lấy thủ đô Hà Nội làm mục tiêu chính, mặc dù kể cả Đặng Tiểu Bình và các tướng tá Trung Quốc luôn miệng rêu rao là có thể đánh xuống Hà Nội trong vòng 1 tuần. Điều này cũng có thể xác thực qua việc Trung Quốc triển khai các mũi tấn công và cách đánh.

Sự thể hiện trên bản đồ giúp chúng ta rất dễ thấy đúng là Trung Quốc dàn quân triển khai tấn công trên 2 mặt trận chính là Vân Nam, ở các tỉnh Lai Châu, Lào Cai (lúc đó thuộc Hoàng Liên Sơn) và Quảng Tây ở 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn (vừa tách từ tỉnh Cao Lạng cuối năm 1978).

Trung Quốc triển khai các mũi tấn công chính đều tập trung vào các thị xã, thị trấn lớn và các cửa khẩu quan trọng trên biên giới, các mũi tấn công nhỏ tuy nhiều nhưng chủ yếu làm nhiệm vụ căng kéo lực lượng ta và đánh chiếm những khu vực không quan trọng.

Nếu Trung Quốc xác định tấn công xuống Hà Nội ngay từ đầu, thì các mũi, các hướng sẽ phải điều chỉnh lại. Lúc đó, mặt trận chính sẽ là Quảng Tây nhưng trọng điểm sẽ là Lạng Sơn và Quảng Ninh, bởi gần Hà Nội hơn.

Ngoài ra, các thị xã, thị trấn lớn của Việt Nam sẽ không còn là mục tiêu trọng điểm buộc phải đánh chiếm, mà Trung Quốc sẽ chỉ huy động lực lượng vừa phải, đánh cầm chừng, kìm chân quân ta ở các điểm phòng thủ chắc chắn, đồng thời tập trung binh lực đột phá xuống đồng bằng.

Vì sao Trung Quốc không sử dụng không quân?

Như vậy, rõ ràng là trước khi tiến hành chiến tranh xâm lược Trung Quốc không có ý đồ đánh xuống Hà Nội, sau giai đoạn 2, Bắc Kinh lại càng không dám bởi lúc đó đã thiệt hại quá nặng nề. Ngay cả trong trường hợp nếu chiếm được 5 tỉnh phía bắc một cách thuận lợi, quân xâm lược cũng không dám và không thể đánh xuống khu vực đồng bằng của ta.

Có những luồng ý kiến thắc mắc là vì sao bế tắc như vậy nhưng Trung Quốc không huy động đến những lực lượng nòng cốt của quân đội, có khả năng tấn công mạnh như không quân hay tên lửa; còn Việt Nam vì sao cũng không dùng đến lực lượng không quân lúc đó đang rất mạnh?

Việc Trung Quốc không đánh xuống Hà Nội có liên quan trực tiếp đến việc nước này không sử dụng đến lực lượng không quân, tên lửa…, trước hết xuất phát từ tuyên bố về một cuộc chiến “phản kích tự vệ”, giới hạn cuộc chiến trong phạm vi một cuộc xung đột biên giới.

Do chủ động tuyên bố về xung đột biên giới

Do tuyên bố về một cuộc chiến tranh mang tính chất phản kích tự vệ trên biên giới nên Bắc Kinh không thể xua quân xuống đồng bằng nước ta, để lòi cái đuôi xâm lược ra. Khi đó, Trung Quốc không những sẽ bị thế giới phản đối mà cũng bị đặt trong tình trạng bị Liên Xô tấn công bất cứ lúc nào.

Vào thời điểm cuối thập niên 70, Việt Nam có một lực lượng phòng không-không quân vào hàng mạnh nhất thế giới

Ngược dòng lịch sử, trước cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Trung Quốc cũng đã từng chủ động gây ra 2 cuộc chiến tranh biên giới quy mô lớn với Ấn Độ (năm 1962) và Liên Xô (năm 1969), đều với lí do được tuyên bố là đáp trả những hành động xâm lấn của đối phương.

Trong cả 2 cuộc chiến này, cả Liên Xô, Trung Quốc và Ấn Độ đều chỉ sử dụng các lực lượng bộ binh các quân khu, lực lượng biên phòng và dân binh, không huy động đến không quân, tên lửa…, do tính chất ban đầu của cuộc chiến đã được Bắc Kinh tuyên bố rõ ràng là “xung đột biên giới”.

Một thời gian dài trước các cuộc chiến tranh biên giới với Liên Xô, Ấn Độ và cả Việt Nam, Trung Quốc bao giờ cũng chủ động gây ra các mâu thuẫn về biên giới với các nước láng giềng, gây dư luận về tình hình tranh chấp chủ quyền căng thẳng giữa các nước để tạo cớ cho việc gây chiến.

Ví dụ như ở Việt Nam, từ năm 1978 đến đầu năm 1979, mức độ xâm phạm lãnh thổ, hoạt động vũ trang mang tính khiêu khích tại biên giới Việt Nam của Trung Quốc ngày càng nghiêm trọng.

Theo con số thống kê, công bố trong Bị vong lục của Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 15-2-1979, số vụ xâm phạm vũ trang của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam năm 1978 là 583 vụ, tăng đột biến so với những năm trước đó, đồng thời, việc làn sóng người Việt gốc Hoa về nước ùn ứ lại các cửa khẩu cũng gây ra những căng thẳng lớn.

Bước sang năm 1979, tình hình tiếp tục còn căng thẳng hơn. Chỉ trong tháng 1 và chưa đến nửa đầu đầu tháng 2, số vụ xâm phạm biên giới của binh lính Trung Quốc đã lên tới 230 vụ, gần bằng nửa so với cả năm 1978.

Không những vậy, Trung Quốc còn cho trên 100 lượt máy bay xâm phạm vùng trời và 481 lượt tàu thuyền hoạt động khiêu khích trên vùng biểu nước ta. Khiến Việt Nam đã nhiều lần ra tuyên bố và gửi công hàm phản đối hành động xâm phạm biên giới Việt Nam tới Bộ Ngoại giao Trung Quốc.

Điều này cũng cho thấy rằng, Trung Quốc đã manh nha kế hoạch xâm lược từ rất lâu và chủ động tạo cớ cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta ngay từ đầu năm 1978. Đây là dấu hiệu quan trọng để nhận diện những hành động quân sự nguy hiểm của Trung Quốc ngay từ giai đoạn manh nha ý đồ.

Trở lại với các cuộc chiến Trung-Xô và Trung-Ấn, trong 2 cuộc chiến do Trung Quốc gây ra, dù ai thắng, ai bại thì cả 3 nước đều không muốn leo thang xung đột với các đối thủ mạnh, kể cả bên chủ động tấn công là Trung Quốc, do đó, họ đều chỉ sử dụng các lực lượng tác chiến trên bộ.

Mục đích của cả Liên Xô, Trung Quốc và Ấn Độ đều là nhằm giới hạn phạm vi của cuộc chiến về vấn đề tranh chấp biên giới, nó dễ dàng đình chiến và đàm phán thỏa hiệp hơn nhiều so với một cuộc chiến tranh bị quy là xâm lược hoặc chiến tranh quy mô lớn.

Không ngoài mục đích này, trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, mặc dù cũng đã huy động ra các sân bay tuyến 1 tới 1700 chiến đấu cơ các loại nhưng máy bay chiến đấu của Trung Quốc không dám bay sang đánh phá Việt Nam mà chỉ bay trợ chiến bên không phận của họ.

Tuy nhiên về bản chất, không phải là Trung Quốc không muốn đánh xuống Hà Nội nhưng ngay từ đầu, họ xác định là không thể đánh được nên đã loại khỏi đầu ý đồ này.

Khi đó, Trung Quốc đã huy động ra các sân bay gần biên giới khoảng 1700 máy bay

Do phòng không-không quân và chủ lực tuyến 2 của ta quá mạnh

Ngoài lí do muốn hạn chế quy mô và tính chất chiến tranh, ngay từ đầu Trung Quốc cũng xác định không thể đánh nổi xuống Hà Nội do trong thời điểm đó, lực lượng tham chiến ban đầu chủ yếu là bộ đội địa phương và dân quân, du kích mà chúng cũng không thể thắng nổi.

Trong khi đó, lực lượng chủ lực rất mạnh của Quân đoàn 1 Việt Nam đang triển khai ở khu vực phía bắc và đã dàn trận bảo vệ thủ đô.

Nếu tiến qua được tuyến phòng thủ biên giới, Trung Quốc cũng hao tổn binh lực quá lớn, gặp chủ lực của Quân đoàn 1 chắc chắn sẽ thất bại.Trong khi đó, các sư đoàn tăng cường từ miền Trung, miền Nam và mặt trận Tây Nam chắc chắn sẽ được điều động về tham chiến. Đến khi quân Trung Quốc đã mỏi mệt, họ sẽ phải nhận thất bại thảm hại hơn.

Hơn nữa, khi tiến xuống đồng bằng, để đối phó với lực lượng chính quy lớn, được viện trợ những vũ khí hiện đại nhất của Liên Xô, Trung Quốc xác định không thể giành chiến thắng chỉ bằng với lực lượng lục quân, mà phải sử dụng các lực lượng tấn công mạnh như không quân.

Khi đó, xung đột quân sự sẽ biến thành cuộc chiến tranh xâm lược quy mô, Trung Quốc không còn có thể rêu rao là chiến tranh “phản kích tự vệ” khu vực biên giới, mà rõ ràng là điều này sẽ gây nhiều bất lợi về ngoại giao cho Trung Quốc, hơn nữa còn khiến họ có thể lâm vào tình trạng “lưỡng đầu thọ địch”.

Ngoài ra, thời điểm đó, lực lượng phòng không-không quân Việt Nam được đánh giá thuộc loại mạnh nhất thế giới. Tuy Trung Quốc có số lượng máy bay rất lớn nhưng các phi công của họ đều không có kinh nghiệm tác chiến, thế hệ phi công cũ trong chiến tranh Triều Tiên vào thập niên 50 đều đã nghỉ hưu.

Các chuyên gia nhận định rằng, kể cả tình huống Trung Quốc có huy động không quân tham gia họ cũng không thể giành được phần thắng trước lực lượng quân sự Việt Nam, trong một cuộc chiến tranh thông thường. Nhận thức được điều đó, Trung Quốc cũng đã tỉnh táo để không leo thang chiến tranh.

Do đó, có thể khẳng định được rằng, ngay cả trong trường hợp đợt tấn công trên toàn mặt trận biên giới diễn ra thuận lợi, Trung Quốc cũng không dám đánh xuống Hà Nội, do đó, đến giai đoạn 2 của cuộc chiến, Việt Nam đã quyết định đưa thêm sư đoàn 320B của Quân đoàn 1 lên biên giới.

Về phần Việt Nam, do chúng ta vừa trải qua 30 năm chiến tranh liên tục (từ năm 1945-1975) với 2 cường quốc là Pháp và Mỹ. Mặc dù chiến thắng nhưng chúng ta cũng hao tổn rất lớn về nhân lực, vật lực và dự trữ quốc gia, mà phải hàng chục năm sau mới phục hồi được.

Nếu sử dụng đến không quân, Việt Nam có thể nhanh chóng đập tan sự tấn công của Trung Quốc ngay trong đợt đầu, nhưng điều đó rất có thể sẽ khiến Bắc Kinh cay cú và huy động tổng lực vào cuộc tấn công, khiến chiến tranh leo thang ngày một nguy hiểm hơn.

Việt Nam không sợ Trung Quốc nhưng hiểu được cái giá của một cuộc chiến lâu dài và khốc liệt, do đó, chúng ta cũng không sử dụng đến lực lượng không quân rất mạnh của mình, nhằm không đẩy cuộc chiến tranh lên một cấp độ cao hơn, dài ngày hơn, với phạm vi rộng lớn hơn.

Tuy nhiên, nếu quân địch vẫn ngoan cố đẩy mạnh chiến tranh, chúng ta sẽ buộc phải huy động lực lượng ngăn chặn quân địch.

Lệnh tổng động viên được đăng trên báo Nhân Dân, số ra ngày 6-3-1979

Vào ngày 5-3, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng công bố lệnh Tổng động viên toàn quốc để giáng đòn tiêu diệt quân xâm lược, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Đây cũng là ngày rút quân theo công bố ban đầu của Trung Quốc, cũng là thời điểm chủ lực Việt Nam đã lên biên giới.

Thực ra, không cần lệnh tổng động viên, chỉ cần lực lượng chủ lực của Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2 cũng đủ sức quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Tuy nhiên, chúng ta phải thể hiện cho Trung Quốc biết rằng, người Việt Nam tuy không muốn chiến tranh nhưng nếu kẻ địch vẫn tiếp tục nổ súng xâm lược, chúng sẽ phải trả giá rất đắt.

Cũng chính bởi lẽ đó, mặc dù các sư đoàn chủ lực của ta đã hợp vây các cụm quân lớn của Trung Quốc nhưng với tinh thần đại nhân, đại nghĩa, chúng ta đã cho phép quân xâm lược được về nước theo một hành lang an toàn – đúng như cái cách quân xâm lược phương Bắc ngàn năm nay đã từng thảm bại trở về từ Việt Nam.

Cùng với việc chủ lực của Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2 đã lên biên giới, lệnh Tổng động viên là cú đòn quyết định khiến Trung Quốc phải vội vã tuyên bố rút lui. Có thể khẳng định rằng, nếu Trung Quốc không chấp hành lệnh rút lui sau ngày 5-3, chủ lực Trung Quốc sẽ bị tiêu diệt sạch.

Trong kỳ sau chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những quan điểm của nhà cầm quyền Bắc Kinh về chiến tranh, đúc rút những bài học kinh nghiệm, đồng thời tìm ra những ý nghĩa mang tính bước ngoặt đối với Việt Nam thông qua cuộc chiến chống quân xâm lược bành trướng Trung Quốc.

RELATED ARTICLES

Tin mới