Sau chuyến thăm chính thức Việt Nam lần đầu tiên của ông Tập Cận Bình trên cương vị nguyên thủ quốc gia Trung Quốc tháng 11 năm ngoái, một sự kiện ngoại giao thu hút sự chú ý của dư luận là chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn.
LTS: Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được bài viết của Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ về nhận định của ông xung quanh chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.
Để rộng đường dư luận, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam xin gửi đến quý bạn đọc bài phân tích này của Tiến sĩ Trần Công Trục. Văn phong và nội dung bài viết thể hiện quan điểm, góc nhìn của tác giả.
Bối cảnh đặc biệt của chuyến thăm
Chuyến thăm diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29/3 năm nay. Ngày 30, 31/3 Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh lại sang Quảng Tây dự hội đàm cấp cao biên giới Việt – Trung với ông Thường Vạn Toàn, theo vtv.vn.
Như vậy hoạt động của ông Thường Vạn Toàn trên lãnh thổ Việt Nam kéo dài 4 ngày, trên lãnh thổ Trung Quốc sát biên giới với Việt Nam 2 ngày, một chuyến thăm khá dài và hiếm gặp.
Trong khi tại Trung Quốc sáng 26/3 cả thảy 9 Thượng tướng, thành viên Quân ủy trung ương Trung Quốc sau cải cách đồng loạt hiện diện trong lễ Nghĩa vụ trồng cây tại xã Tôn Hà khu Triều Dương, Bắc Kinh, vắng mỗi ông Tập Cận Bình – Chủ tịch Quân ủy và ông Thường Vạn Toàn – Bộ trưởng Quốc phòng. Hai ông đều đi công du nước ngoài.
Còn tại Hà nội, Quốc hội khóa XIII đang họp kỳ họp cuối cùng để quyết định nhiều vấn đề hệ trọng, trong đó có vấn đề chuyển giao quyền lực của 3 vị lãnh đạo chủ chốt của đất nước. Trên Biển Đông, các hoạt động của Trung Quốc vi phạm các quyền và lợi ích của các quốc gia xung quanh vẫn không ngừng diễn ra.
Gần nhất là vụ giàn khoan 943 rục rịch kéo ra hoạt động tại khu vực chồng lấn ở cửa vịnh Bắc Bộ, bất chấp quy định của Luật Biển quốc tế và thỏa thuận chính trị giữa 2 nước.
Ngay trong ngày hôm qua 30/3 khi Bộ trưởng Quốc phòng hai nước còn đang hội đàm ở Quảng Tây, thì ông Hồng Lỗi, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc công khai thừa nhận thông tin báo giới phản ánh tuần trước, Trung Quốc đã bố trí bất hợp pháp tên lửa chống hạm YJ-62 ở đảo Phú Lâm, Hoàng Sa (Đà Nẵng, Việt Nam).
Hồng Lỗi nói, chuyện này bình thường thôi, không phải “quân sự hóa”.
Như vậy với Trung Quốc, chuyến thăm Việt Nam lần này của ông Thường Vạn Toàn cũng là một hoạt động ẩn chứa nhiều ý nghĩa đáng được dư luận quan tâm.
Thông điệp lạ từ chuyến thăm Việt Nam của ông Thường Vạn Toàn
Người viết lấy làm lạ khi đọc được bài báo “Bộ trưởng Quốc phòng TQ thăm VN, phản bác luận điệu xuyên tạc” đăng trên báo điện tử vietnamnet.vn ngày 23/3/2016. Trong đó khi giới thiệu về nội dung chuyến thăm có đoạn:
“Đồng thời phản bác lại những luận điệu xuyên tạc sai trái của các thế lực thù địch về những vướng mắc, bất đồng trong quan hệ giữa hai nước thời gian qua.”
Lạ là vì đến giờ này khi ông Thường Vạn Toàn đã rời khỏi lãnh thổ Việt Nam về Quảng Tây, Trung Quốc, nhưng chưa thấy ông hay tùy tùng có phát biểu nào nhằm “phản bác lại những luận điệu xuyên tạc sai trái của các thế lực thù địch về những vướng mắc, bất đồng trong quan hệ giữa hai nước thời gian qua”.
Trong khi theo QQ News, ngày 28/3 hơn 4500 cựu binh và quyến thuộc từng tham gia Chiến tranh xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam giai đoạn 1979-1989 tập trung về Phòng Thành Cảng, Quảng Tây để tảo mộ binh lính chết trận và kỷ niệm cái họ gọi là “chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam”, một sự xuyên tạc lịch sử trắng trợn về bản chất của cuộc xung đột.
Cho đến nay, Trung Quốc cùng với Nga được các nhà ngoại giao Việt Nam xếp vào diện “đối tác chiến lược – toàn diện”, nhưng lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức đến nay đã trải qua nhiều thăng trầm, có lúc hợp tác mật thiết, có lúc xung đột đối đầu và để lại nhiều hệ lụy ngày hôm nay vẫn chưa giải quyết hết được.
Sau các sự kiện năm 1974 Trung Quốc xâm lược nốt nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa, thì năm 1979 Trung Quốc cất quân xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam và xung đột kéo dài đến mãi năm 1989.
Năm 1988 Trung Quốc xâm lược 6 bãi đã ở quần đảo Trường Sa, và gần nhất là năm 2014 giàn khoan 981 hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam gây ra cuộc khủng hoảng tồi tệ trong quan hệ 2 nước.
Vụ giàn khoan 981 là một kế nghi binh ngoạn mục để Trung Quốc thúc đẩy việc bồi lấp, xây dựng và quân sự hóa đảo nhân tạo trái phép với quy mô chưa từng có trên ít nhất 7 thực thể họ chiếm đóng trái phép ở Trường Sa. Đó là những sự thật lịch sử rõ như ban ngày mà không một “thế lực thù địch” nào có thể xuyên tạc được.
Với mỗi người Việt Nam yêu nước, dù một tấc đất do cha ông để lại cũng có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng cao cả và sẵn sàng hy sinh tính mạng và tài sản để bảo vệ, giữ gìn cơ đồ cha ông cho con cháu mai sau.
Quyết không thể coi đó là “chuyện nhỏ” hay “tiểu cục” như ông Tập Cận Bình nói trong chuyến thăm Việt Nam năm ngoái, hay nói như bài báo trên vietnamnet.vn chỉ là “những vướng mắc, bất đồng trong quan hệ giữa hai nước thời gian qua”.
Cá nhân người viết luôn ủng hộ chủ trương giải quyết các tranh chấp bất đồng giữa Việt Nam – Trung Quốc bằng biện pháp hòa bình, đối thoại trên cơ sở luật pháp quốc tế. Mà muốn đối thoại, thì những cuộc gặp cấp cao giữa lãnh đạo hai nước có vai trò quan trọng.
Bởi vậy nên người viết hoan nghênh các chuyến thăm Việt Nam của các nhà lãnh đạo Trung Quốc và ngược lại. Vấn đề chính đặt ra là, trong nội dung chuyến thăm và làm việc, lãnh đạo cấp cao hai nước đã đề cập và có hướng xử lý như thế nào về các tranh chấp, bất đồng ấy.
Bởi lẽ chỉ có thái độ khách quan, sòng phẳng và cầu thị với lịch sử mới giúp củng cố quan hệ hợp tác giữa 2 nước thực sự bền vững, thực chất, mới hy vọng có được “niềm tin chiến lược” như ai đó vẫn nói.
Cũng chỉ có khách quan, sòng phẳng và cầu thị với lịch sử mới giúp Việt Nam và Trung Quốc vượt qua những khúc quanh lịch sử, giải quyết tranh chấp bất đồng hiện tại và hướng tới tương lai hợp tác, ổn định, lâu dài mà không một “thế lực thù địch” nào có thể xuyên tạc hay chống phá được.
Nhưng người viết chưa thấy thiện chí nhìn thẳng sự thật lịch sử với thái độ khách quan, sòng phẳng và cầu thị từ các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Dường như họ chỉ muốn tìm cách khuyên răn chúng ta “khép kín” để quên đi quá khứ, muốn chúng ta “duy trì hiện trạng” còn họ thì “lấn tới tương lai”.
Mọi người Việt Nam yêu nước đều ghi nhớ, Trung Quốc chính thức cất quân tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam ngày 17/2/1979 gây ra cuôc chiến tranh xâm lược đẫm máu ác liệt kéo dài suốt 10 năm. Ngày 17/2 năm nay, người dân và các tổ chức Việt Nam đã tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc vĩ đại này.
Nhưng tại sao các cựu binh Trung Quốc lại “đợi” đúng ngày 28/3 khi ông Thường Vạn Toàn đang ở Việt Nam để tổ chức kỷ niệm, tảo mộ, dù vẫn còn nhận thức khác nhau về bản chất và nguyên nhân cuộc chiến? Với người viết, đó là một sự việc “lạ mà không lạ”.
Mục đích và kết quả chuyến thăm Việt Nam của ông Thường Vạn Toàn
Mục đích thực chất chuyến thăm Việt Nam của ông Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc thì chỉ có cá nhân ông Thường Vạn Toàn và cộng sự mới biết rõ nhất. Những gì thể hiện trên truyền thông có lẽ chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.
Cũng giống như mọi hoạt động đối ngoại khác trên thế giới, giới phân tích và quan sát chỉ có thể “nhìn quả đoán cây”, chứ hiếm có người biết được chính xác mục đích, ý đồ của người trong cuộc.
Kết quả chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam của ông Toàn được báo Thanh Niên phản ánh có thể tóm lại thành mấy nội dung chính:
1) Đánh giá quan hệ hai nước về tổng thể phát triển ổn định;
2) Trao đổi thẳng thắn về tranh chấp trên biển, nhấn mạnh tiếp tục xử lý thỏa đáng qua đàm phán hòa bình hữu nghị, căn cứ vào chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp lâu dài hai bên có thể chấp nhận được;
3) Nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện DOC và xúc tiến xây dựng COC;
4) Quân đội hai nước phải bình tĩnh, kiềm chế, kiểm soát tốt tình hình, không để xảy ra xung đột, tăng cường hợp tác thực chất và hiệu quả, tiếp tục khẳng định hợp tác quốc phòng tiếp tục là một trong những trụ cột của quan hệ song phương.
Cũng với nguyên tắc “nhìn quả đoán cây”, người viết xin dẫn ra nhận định của tờ Đa Chiều, một tờ báo người Hoa hải ngoại tại New York có quan điểm thân chính phủ Trung Quốc, bình luận ngày 28/3 về mục đích chuyến thăm Việt Nam của ông Thường Vạn Toàn lần này:
Ảnh chụp tiêu đề và một phần đầu bài báo trên Đa Chiều ngày 28/3 bình luận về mục đích chuyến thăm Việt Nam của ông Thường Vạn Toàn. |
1) Xoa dịu phản ứng của Việt Nam với việc tàu cá Việt Nam bị tấn công trên vùng biển Hoàng Sa ngày 6/3 và ngày 7/3 do lo ngại có thể bùng lên phản ứng dữ dội từ dư luận như vụ giàn khoan 981 năm 2014.
Nhất là gần đây Indonesia đã có những động thái phản ứng gay gắt với hành vi của Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Natuna, Indonesia phía Nam Biển Đông;
2) Nhấn mạnh hợp tác giữa Trung Quốc với các nước ASEAN vẫn lớn hơn bất đồng trên Biển Đông. Trong trường hợp này là Việt Nam;
3) Trấn an Việt Nam về các hoạt động quân sự hóa đảo nhân tạo bất hợp pháp ở Biển Đông. (BBC tiếng Trung Quốc ngày 29/3 lưu ý, tháp tùng ông Toàn thăm Việt Nam còn có tướng Thẩm Kim Long, Tư lệnh Hạm đội Nam Hải).
4) Thăm dò thái độ của các nhà lãnh đạo Việt Nam sau Đại hội 12 về Biển Đông và quan hệ Việt – Trung.
Còn cá nhân người viết cho rằng, ngoài 4 mục đích mà tờ Đa Chiều chỉ ra, có thể còn có 2 mục đích quan trọng khác trong chuyến thăm Việt Nam của ông Thường Vạn Toàn:
1) Thêm một lần nữa tìm cách ngăn cản Việt Nam không được khởi kiện Trung Quốc như Philippines đã làm, nhất là ngày ra phán quyết của PCA đang đến gần;
2) Cản trở khả năng Việt Nam hợp tác quân sự với Hoa Kỳ, như việc đặt kho hậu cần tại Việt Nam mà một số quan chức Mỹ đã tiết lộ, hoặc tìm kiếm việc truy cập cảng Cam Ranh…
Dù với mục đích nào, thì người viết vẫn đánh giá cao kết quả chuyến thăm này, đặc biệt là việc thống nhất quan điểm giải quyết tranh chấp trên Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS và quân đội 2 bên kiềm chế không để xảy ra xung đột đối đầu.
Vấn đề còn lại là chúng ta đấu tranh như thế nào trong khuôn khổ luật pháp quốc tế? Hiểu và vận dụng luật pháp quốc tế bao gồm UNCLOS như thế nào? Hiểu như thế nào về duy trì hiện trạng trong khi Trung Quốc vẫn thúc đẩy quân sự hóa Biển Đông?
“Binh bất yếm trá”
Người Trung Quốc có câu “Binh bất yếm trá” với ý nghĩa, trong việc dùng binh, việc quân sự thì không loại trừ gian kế, dối trá. Điều này khiến người viết bất giác nhớ đến Tập 35 “Khổ nhục kế” của tác phẩm điện ảnh kinh điển Trung Hoa “Tam Quốc diễn nghĩa” bản 1986 thể hiện rõ tư tưởng “binh bất yếm trá” của các nhà lãnh đạo quân sự, chính trị Trung Quốc.
Sau khi Tưởng Cán trúng kế Chu Du làm Tào Tháo giết nhầm 2 tướng thủy quân Sái Mạo, Trương Doãn, Tháo tức tối tìm cách đối phó. Tào Tháo sai Sái Trung, Sái Hòa em họ Sái Mạo sang trá hàng.
Chu Du tương kế tựu kế, dùng Hoàng Cái vào “khổ nhục kế” trá hàng Tào Tháo để triển khai kế hỏa công trong trận Xích Bích. Khổng Minh đứng ngoài quan sát, không một động tĩnh nào của Chu Du thoát khỏi mắt ông ta, bởi trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Khổng Minh là bậc thầy của “binh bất yếm trá”.
Sở dĩ người viết nhắc tới tác phẩm văn học và điện ảnh kinh điển này là muốn nhấn mạnh, chính người Trung Quốc đã dạy con cháu họ, việc quân sự và bang giao giữa các nước thì không loại trừ gian kế, không ngại dối trá. Câu chuyện này còn nhắc nhở chúng ta phải biết tương kế tựu kế hóa giải mưu gian của đối phương.
Nếu như Trung Quốc muốn dùng “đại cục – tiểu cục” để ràng buộc Việt Nam thì chúng ta phải dùng cái gốc của “đại cục” để hóa giải. Gốc rễ của “đại cục” chính là lòng dân.
Việt Nam rất coi trọng và mong muốn chung sống hòa bình, hợp tác hữu nghị với Trung Quốc. Nhưng để củng cố được quan hệ hợp tác hữu nghị phát triển lâu dài, những mầm mống xung đột cần phải được giải quyết dứt điểm một cách khách quan, cầu thị, sòng phẳng và dựa trên luật pháp quốc tế.
Ngư dân Việt Nam vẫn bị tấn công ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa – một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc đang bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp. Trung Quốc vẫn tiếp tục quân sự hóa Biển Đông thì lấy đâu ra lòng tin và cơ sở củng cố quan hệ hai nước?
Họ muốn sang thăm dò mình, cũng tốt thôi, hãy nhân những cơ hội thăm dò để chuyển tải thiện chí, lập trường kiên định của mình bằng những thủ pháp mềm dẻo, khéo léo, nên tìm cách tương kế tựu kế.
Do đó, về mặt đối ngoại thiết nghĩ chúng ta vẫn phải vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên cơ sở công pháp quốc tế, lẽ phải và sự thật. Chúng ta hoan nghênh các nhà lãnh đạo cấp cao Trung Quốc như ông Thường Vạn Toàn sang thăm, vì đó là cơ hội cho đối thoại giải quyết các tranh chấp bất đồng, củng cố đoàn kết, hòa bình, hữu nghị giữa 2 nước.
Tuy nhiên cũng phải hết sức tỉnh táo trước bài toán “đại cục – tiểu cục” mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang triển khai. Về mặt ngoại giao chúng ta lắng nghe để sau đó phản hồi, phản biện lại một cách thấu tình đạt lý, họ nghe được và ta nghe được.
Còn về chính sách đối ngoại nói chung, chúng ta cần giải thích cho họ hiểu, Việt Nam nhất quán chủ trương muốn làm bạn bè tin cậy, đối tác có trách nhiệm với tất cả các quốc gia yêu chuộng hòa bình và công lý.
Trung Quốc cũng là một đối tác bình đẳng của Việt Nam như Hoa Kỳ hay Nhật Bản, Singapore, Philippines…Để dư luận khu vực và thế giới hiểu lầm Việt Nam và Trung Quốc “nói riêng” với nhau gì đó trên Biển Đông sẽ vô cùng nguy hại.
Về mặt đối nội, cũng cần giải thích rõ cho nhân dân về phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong quan hệ với Trung Quốc, vừa bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vừa bảo vệ hòa bình ổn định khu vực và Biển Đông như thế nào.
Có như thế mới tạo được đồng thuận xã hội, loại trừ bất ổn và tăng sức mạnh quốc gia trong đàm phán, giải quyết tranh chấp với Trung Quốc và các nước khác trên Biển Đông.
Nhân dân Việt Nam, nhân dân Trung Quốc hay bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng mong mỏi được sống trong hòa bình, hợp tác và phát triển. Nhưng lãnh đạo một số quốc gia có vẻ xem nhẹ điều này. Với họ trở thành siêu cường số một số hai thế giới mới thực sự là mục tiêu, bởi lẽ ấy xung đột, chiến tranh trên thế giới mới liên miên không dứt.
Vì vậy, người Việt Nam mặc dù không bao giờ quên được những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt của biết bao thế hệ đã ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền thiêng liêng của mình. Nhưng vì các quyền và lợi ích chính đáng của mỗi quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, tiến bộ, người Việt Nam sẵn sàng “gác lại quá khứ” để hướng tới tương lai.
Người Việt Nam rất coi trọng hòa bình, hữu nghị với nhân dân Trung Quốc, nhưng cũng kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Người dân Việt Nam mong muốn các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng, cách tốt nhất để “phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch” là giải quyết một cách sòng phẳng, khách quan, cầu thị theo đúng tinh thần luật pháp quốc tế các tranh chấp, bất đồng giữa hai nước trên Biển Đông và nhìn nhận đúng đắn, khách quan về các sự kiện lịch sử, chứ không phải tìm cách lảng tránh, che đậy nó để “thế lực thù địch” nào đó lợi dụng.
Cách tốt nhất để tránh chiến tranh, vun đắp cho quan hệ hòa bình hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc là phải nỗ lực loại bỏ tận gốc các mầm mống của chiến tranh xung đột trên cơ sở đàm phán hòa bình, căn cứ theo luật pháp quốc tế.