Ngày 13/4/2016, tại Hà Nội đã diễn ra một cuộc gặp gỡ lịch sử giữa một số phi công tiêm kích lừng danh của Việt Nam và một số phi công Mỹ đã từng tham chiến ở Việt Nam từ những năm 1965-1972.
Ngày 10/5/1972, lần đầu tiên Không quân Việt Nam tiến hành xuất kích đánh hiệp đồng cả 4 trung đoàn không quân.
Tại cuộc gặp này, một số phi công Mỹ đã từng tham chiến ở chiến tranh Triều Tiên, đã đối đầu với phi công Liên Xô cũ, Trung Quốc, Triều Tiên đã phải công nhận rằng, phi công tiêm kích Việt Nam là những người xuất sắc nhất trong những người xuất sắc.
PetroTimes xin giới thiệu với bạn đọc hai trận đánh nổi tiếng của Không quân Việt Nam trong cuộc chiến đấu bảo vệ vùng trời miền Bắc trước cuộc chiến tranh phá hoại bằng Không quân của Mỹ.
I – CÁC TRẬN KHÔNG CHIẾN NGÀY 10/5/1972
(Một trong những ngày không chiến dài nhất trong chiến tranh trên không ở Việt Nam)
Ngày 10/5/1972 (ngày đầu tiên của chiến dịch) phía Mỹ tiến hành đồng thời hai chiến dịch Linebacker I và Operation Custom Tailor trên quy mô lớn, với 414 lần/chuyến cất cánh của lực lượng máy bay chiến đấu thuộc Bộ tư lệnh không quân số 7 và Bộ tư lệnh đặc nhiệm 77 của hải quân Mỹ. Phía Mỹ huy động lực lượng lớn các máy bay A-6 (Intruder), A-7 (Corsair) và F-4 (Phantom) từ các tàu sân bay trên biển Đông cất cánh bay vào đánh phá các mục tiêu quanh khu vực Hải Phòng và các mục tiêu phía đông nam Hà Nội. Lúc 8 giờ sáng, các phi đội tấn công đầu tiên cất cánh từ tàu USS Constellation và USS Kitty Hawk hướng về Hải Phòng, sau đó 20 phút là các biên đội từ hai tàu USS Coral Sea và USS Okinawa cất cánh để tiến hành chiến dịch tấn công mang mật danh Alpha Strike. Trong trận này các máy bay Mỹ đeo bom hạng nặng để ném bom sân bay Kiến An và các trận địa tên lửa phòng không.
Trong khi đó tại các căn cứ không quân ở Thái Lan, các phi đoàn không quân chiến thuật Mỹ đã chuẩn bị cất cánh từ sáng sớm để tấn công các mục tiêu sâu trong lãnh thổ miền Bắc Việt Nam. Trong ngày 10/5/1972, không quân Mỹ huy động 120 máy bay tham gia tấn công, trong đó 16 máy bay F-4 và 5 chiếc F-105 bay vào trước để chế áp lực lượng phòng không và máy bay MiG, 20 chiếc F-4 và năm chiếc F-105 khác làm nhiệm vụ đánh cầu Long Biên, 24 chiếc F-4 và 5 chiếc F-105 tham gia đánh nhà ga Yên Viên, ngoài ra còn có 88 chiếc máy bay các loại làm nhiệm vụ hỗ trợ. Một trong những nhiệm vụ của không quân và hải quân Mỹ trong ngày 10/5/1972 là phải đánh sập cầu Long Biên bắc qua sông Hồng mà trước đó, trong suốt bảy năm trời không quân Mỹ chưa đánh sập được.
Lúc 4 giờ sáng tại khách sạn Metropol, một nhóm các nhà báo quốc tế được đánh thức dậy để di chuyển xuống Hải Phòng, nơi dự kiến có thể ghi nhận các hình ảnh về các trận đánh phá của hải quân Mỹ xuống Hải Phòng và tham dự buổi họp báo về việc tố cáo Mỹ thả mìn phong tỏa cảng Hải Phòng. Trong số các nhà báo quốc tế có hai nhà báo Pháp Theodore Ronco và Claude Julien của tờ L’Humanité và tờ Le Monde. Đây sẽ là các nhân chứng sống chứng kiến các máy bay Mỹ đánh phá các mục tiêu dân sự.
Trước ý đồ của Không quân và Hải quân Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân quyết định tổ chức đánh hiệp đồng cả ba loại MiG của bốn trung đoàn Không quân tiêm kích với lực lượng tên lửa, pháo Phòng không. Ý định tác chiến của Bộ Tư lệnh là triển khai theo phương án đánh các tốp máy bay cường kích của Hải quân và Không quân Mỹ ở cả ba hướng: hướng Đông bảo vệ Hải Phòng, hướng Đông Bắc bảo vệ cầu Long Biên, các mục tiêu Đường 1 Bắc và hướng Tây, bảo vệ đập Bái Thượng, sân bay Yên Bái.
Các phi công – Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân giai đoạn 1964 – 1973 |
Chủ trì kíp trực chỉ huy tại Sở chỉ huy Không quân là Tư lệnh Đào Đình Luyện, cùng có mặt gồm các Phó Tư lệnh Trần Mạnh, Trần Hanh, phó Chính ủy Hồ Luật, trực ban dẫn đường Lê Thành Chơn, Khổng Đức Thi, Đỗ Cát Lâm, Lê Viết Diện. Trung đoàn 921 sử dụng các biên đội 2 chiếc Đặng Ngọc Ngự và Nguyễn Văn Ngãi, Nguyễn Công Huy và Cao Sơn Khảo; Trung đoàn 927 là biên đội 2 chiếc Lê Thanh Đạo và Vũ Văn Hợp; Trung đoàn 923 sử dụng ba biên đội 4 chiếc và hai biên đội 2 chiếc MiG-17 trực ban chiến đấu tại sân bay Kép. Trung đoàn 925 tổ chức hai biên đội 4 chiếc trực ở hai đầu sân bay Yên Bái gồm: Hoàng Cao Bổng, Phạm Cao Hà, Nguyễn Văn Cương, Lê Văn Tưởng và Phạm Ngọc Tâm, Phạm Hùng Sơn C, Nguyễn Văn Phúc, Lê Đức Oánh. Trong ngày 10/5, phía Không quân Việt Nam xuất kích 64 lần/chiếc (số lượng lớn nhất trong các trận không chiến giai đoạn hai).
Tại Trung đoàn Không quân 923: Lúc 7 giờ 53 phút, Bộ Tư lệnh cho trạm ra đa C-53 mở máy và phát hiện máy bay Mỹ hoạt động quanh khu vực Hải Phòng. Lúc 8 giờ 40 phút biên đội Mig-17 gồm Vũ Văn Đang, Nguyễn Công Ngũ, Trịnh Văn Quy, Nguyễn Văn Lâm cất cánh từ sân bay Kép, vào khu chờ Phả Lại, không gặp đối phương đã quay về hạ cánh. Đến 8 giờ 55 phút Sở chỉ huy Trung đoàn 923 cho biên đội MiG-17 Đỗ Hạng và Nguyễn Xuân Hiển cất cánh từ Kép, nhưng do không gặp đối phương đã quay về hạ cánh. Sau đó, từ 9 giờ 05 phút đến 17 giờ 08 phút chiều, đã có thêm 10 tốp Mig-17 với 32 lần/chiếc của Trung đoàn 923 cất cánh làm nhiệm vụ (trong đó có nhiều biên đội cất cánh hai lần, riêng các phi công Vũ Văn Đang, Nguyễn Xuân Hiển cất cánh ba lần).
Trung tướng Nguyễn Đức Soát, Anh hùng LLVT trò chuyện với một cựu phi công Mỹ (ngày 13/4/2016) |
Tại Trung đoàn Không quan 921, lúc 8 giờ 52 phút, Sở chỉ huy lệnh biên đội MiG-21 Ngự – Ngãi cất cánh từ sân bay Kép. Khi biên đội mới rời đất và thu càng thì hai chiếc F-4J (Silver Kite) phát hiện, xông vào công kích. Đây là hai chiếc F-4J do Đại úy Austin Hawkins thuộc Phi đoàn VF-92, tàu sân bay USS Constellation dẫn đầu đang bay tuần tiễu trên độ cao 5.000m. Khi bay ngang qua sân bay Kép, hai chiếc F-4 này đã phát hiện MiG của Đặng Ngọc Ngự và Nguyễn Văn Ngãi cất cánh. Chiếc F-4 số 2 do Đại úy Curt Dose và thiếu tá James McDevitt điều khiển bám theo, phóng hai quả tên lửa AIM-9G, quả thứ hai đã trúng chiếc MiG số hai của Ngãi. Lúc đó anh mới lên độ cao 150-200m, Ngãi không kịp nhảy dù nên đã hy sinh.
Trong khi đó, Đặng Ngọc Ngự đã lên độ cao 600m, tốc độ 750-800km/h, phát hiện 2 chiếc F-4 phía sau đang phóng tên lửa về phía mình, anh nhanh chóng cơ động tránh tên lửa, ngay lúc đó anh phát hiện thêm 2 chiếc F-4 khác đang đối đầu cự ly 4-6km, anh nhanh chóng vứt thùng dầu phụ, bật tăng lực, tăng tốc độ lên 900km/h và cô động gấp. Lúc đó 2 chiếc F-4 cũng phát hiện chiếc MiG-21 nên cơ động vòng gấp bên trái bám theo anh.
Hai chiếc F-4 cơ động, theo chiến thuật tách đội hình, đan chéo, một chiếc trên cao, một chiếc dưới thấp. Phi công Đặng Ngọc Ngự rơi vào thế một mình đối đầu 2 chiếc F-4. Anh làm động tác giả định bám theo chiếc F-4 bên dưới, lúc đó chiếc F-4 trên cao liền đổi hướng bám theo, anh lập tức vòng gấp bám theo chiếc này, tức thì chiếc bên dưới quay lại bám theo anh. Phi công Đặng Ngọc Ngự quyết định đổi hướng, nhanh chóng bám theo chiếc F-4 bên dưới, đưa mục tiêu vào vòng ngắm, khi cự ly là 1.200m, tốc độ đạt 1.100km/h, độ cao 1.500m, anh ấn nút phóng quả tên lửa R-3S bên trái, sau đó anh nhanh chóng thoát ly, chuyển sang bám chiếc F-4 còn lại, đến cự ly 1.200m anh ấn nút phóng quả tên lửa thứ hai, nhưng rất may cho viên phi công F-4, quả tên lửa bên phải không đi. Phi công Đặng Ngọc Ngự nhanh chóng thoát ly về Nội Bài hạ cánh, lúc 9 giờ 12 phút.
Như vậy trong trận không chiến ngày 10/5/1972, biên đội MiG-21, Đặng Ngọc Ngự và Nguyễn Văn Ngãi của Trung đoàn 921, đã bắn rơi 1 chiếc F-4. Trong khi phi công Nguyễn Văn Ngãi số 2 đã hy sinh, tỷ số của trận không chiến là 1/1.
Ghi theo lời kể của phi công Lê Thanh Đạo:
Phi công Lê Thanh Đạo |
“Lúc đó biên đội chúng tôi (Đạo – Hợp) đang ngồi trong buồng lái chờ cất cánh ở đầu đường băng sân bay, nên chứng kiến từ khi biên đội Ngự – Ngãi cất cánh, thấy rõ khi máy bay số 2 mới rời đất đang thu càng đã bị tên lửa Mỹ bắn trúng, lúc đó chúng tôi rất căm thù và quyết tâm nếu cất cánh phải đánh tốt trả thù cho đồng đội.
Cũng lúc ấy chúng tôi đã dùng liên lạc đối không thông báo cho số 1 Ngự biết có F-4 đang đuổi theo. Nhờ được Đạo-Hợp cảnh báo, Ngự đã cơ động với tốc độ lớn trên độ cao thấp nên tránh được tên lửa của F-4(F-4 số 1 bắn liên tiếp 3 quả AIM-9G, F-4 số 2 bắn 1 quả nhưng Ngự đều tránh được). Hai chiếc F-4 chỉ còn lại tên lửa điều khiển AIM-7 và không kịp sử dụng pháo, nên không làm gì được Ngự, mặc dù ở vị trí rất có lợi…”.
Sau đó chưa đầy một tiếng, ở hướng Tây Bắc, 84 chiếc F-4 và 5 chiếc F-105 với đội hình có cả máy bay ném bom, máy bay làm nhiệm vụ yểm trợ, tìm diệt MiG trinh sát, cứu nguy, trực thăng, thông qua phía Bắc Lào và Thái Lan bay vào miền Bắc Việt Nam. Do nắm trước được ý đồ không quân Mỹ sẽ đánh đập Bái Thượng và sân bay Yên Bái, Sở chỉ huy Không quân đã chuẩn bị phương án và quyết định sử dụng biên đội MiG-21 (Nguyễn Công Huy số 1 và Cao Sơn Khảo số 2) làm nhiệm vụ nghi binh và yểm trợ cho MiG-19 đánh bảo vệ các mục tiêu ở khu chiến Yên Bái – Tuyên Quang.
Lúc 9 giờ 39 phút, chiến dịch bắt đầu, khi biên đội MiG-21 (Huy và Khảo) cất cánh, theo ghi chép nhật ký chiến đấu của Không quân Việt Nam, thì 2 chiếc MiG-21 của Trung đoàn 921 cũng cất cánh từ Nội Bài, hướng về Tuyên Quang (theo báo cáo của phi công Mỹ có đến 4 chiếc MiG-21).
Biên đội Huy số 1 – Khảo số 2, sau khi cất cánh bay hướng 320 độ, giữ độ cao 2.000m. Đến 9 giờ 53 phút, Sở chỉ huy cho lên 6.000m. Do bị nhiễu nặng không liên lạc đối không được, sở chỉ huy cho chuyển sang rãnh liên lạc số 5. Lúc này biên đội 4 chiếc F-4D (mật danh Oyster) của Mỹ do thiếu tá Robert A. Lodge và Đại úy Roger C. Locher dẫn đầu, bay số 3 là Đại úy S.Rittchie và Đại úy DeBellevue (2 phi công sau này sẽ trở thành các phi công Aces đầu tiên của Không quân Mỹ) làm nhiệm vụ chế áp MiG trên vùng trời Tuyên Quang yểm trợ đội hình cường kích tấn công cầu Long Biên, Hà Nội và ga Yên Viên.
Theo các tin tức tình báo thì máy bay F-4D này là thế hệ F-4 cải tiến, được lắp thêm cánh tà trước, và là những chiếc F-4D đầu tiên được trang bị hệ thống tác chiến điện tử – chỉ dẫn tập trung APX-80 Combat Tree IFF Interrogator, biên chế tại căn cứ Udorn, Thái Lan với thiết bị QRC-248 có khả năng thu và giải mã tần số (integrated) vào hệ thống phân biệt địch ta SRO-2 và SRZO-2 của MiG. Vì vậy mà biên đội F-4 tiếp cận các máy bay MiG trong khi biên đội MiG không hề hay biết.
Lúc 8 giờ 23 phút, nhiều khả năng, hệ thống cảnh báo sớm trên tàu USS Chicago đã cảnh báo cho đội hình F-4 có MiG xuất hiện, các máy bay F-4 đã tiếp cận từ độ cao thấp ở thế đối đầu và phóng 2 quả tên lửa AIM-7E-2 về phía biên đội MiG. Số 1 Huy, trong khi quan sát, tìm kiếm mục tiêu đã phát hiện 2 tên lửa từ bên trái phía sau lao đến, anh lệnh vòng phải gấp! Nhưng không thấy số 2 trả lời. Chiếc F-4 đã phóng tên lửa về phía chiếc MiG của Khảo do Trung úy nhất John D.Markle và Đại úy Steven D.Eaves thuộc Phi đoàn 555 Không đoàn 432 FFW điều khiển.
Ngay lúc đó số 1 phát hiện 4 chiếc F-4 ở phía sau hướng 160 độ bay theo từng đôi một, đang vòng phải bám theo anh. Sau khi 2 chiếc F-4 và MiG số 1 Huy vòng bám nhau một vòng không có kết quả, cả hai phía để mất mục tiêu. Số 1 Huy ngay lúc đó lại phát hiện 1 chiếc F-4 đang bay từ trái sang phải, kéo lên ở độ cao cao hơn anh khoảng 1.000m. Anh lập tức tăng lực, bám theo, đến cự ly 3.000m, tốc độ 850km/h, anh đưa mục tiêu vào vòng ngắm và khi ổn định, ấn nút phóng quả tên lửa bên trái, anh nhanh chóng lật úp máy bay, kéo xuống thoát ly.
Sau khi nghe Sở chỉ huy cảnh báo: “Chú ý cảnh giới bên ngoài phải”, số 1 Huy phát hiện từ phía bên phải, phía sau khoảng 4km, 2 chiếc F-4 khác đang phóng tên lửa về phía mình. Anh nhanh chóng lật úp, vòng lại đối đầu với 2 chiếc F-4, rồi bay vút ngang qua 2 chiếc F-4 này và thoát ly. Số 1 Huy hạ thấp độ cao, bay men theo triền dãy Tam Đảo quen thuộc, về sân bay Kép hạ cánh lúc 10 giờ 28 phút, khi máy bay lăn vào anh nhìn thấy đồng hồ báo lượng dầu chỉ 300 lít, và sau đó các thợ máy đã đếm được 16 lỗ thủng trên thân máy bay.
Riêng về số 2 Cao Sơn Khảo, kể từ khi số 1 hô vòng phải gấp, không có liên lạc gì từ lúc 9 giờ 57 phút. Do vậy các thông tin chính xác về động tác trên không của số 2 cũng không có điều kiện dựng lại. Tuy nhiên, theo phản ánh, xác nhận của địa phương, những người chứng kiến hành động chiến đấu trên không của số 2 và công nhận của Quân chủng thì phi công Cao Sơn Khảo, trong trận này đã bắn rơi 1 chiếc F-4, trước khi bị trúng tên lửa địch và rơi ở Trấn Yên, Yên Bái, Cao Sơn Khảo nhảy dù nhưng không thành công. Anh hy sinh sau khi tiếp đất.
Trích từ cuốn “Tôi từng là phi công tiêm kích”:
“Biên đội chúng tôi (Huy – Khảo) xuất kích từ sân bay Đa Phúc, bay nhiệm vụ nghi binh yểm trợ cho biên đội MiG-19. Khi chúng tôi bay về phía Tuyên Quang và lên độ cao 6.000m thì được Sở Chỉ huy thông báo có mục tiêu phía trước. Ngay lúc đó tôi phát hiện các máy bay F-4 phía trước đang bay đối đầu, khi nhìn thấy dưới cánh tóe lửa màu xanh, tôi hiểu ngay là các máy bay F-4 đang phóng tên lửa uy hiếp về phía biên đội MiG. Tôi hô cho số 2 cơ động, rồi hô tiếp vứt thùng dầu phụ, tăng lực, vòng phải gấp.
Đúng lúc đó, tôi thấy 1 quả tên lửa bay vút về phía trước, ngay trên đầu mình và lao về phía chiếc máy bay phía trước. Do ở xa nên tôi không phân biệt rõ đó là MiG-21 hay F-4. Để chắc chắn, tôi hô số 2 “Cơ động gấp!”, nhưng không thấy phản ứng gì, quả tên lửa lao thẳng vào chiếc máy bay, bốc cháy bùng lên. Tôi lại hô: “Nhảy dù” nhưng cũng không thấy động tĩnh gì. Ngay lúc đó lai thấy chiếc máy bay vừa bắn rơi chiếc phía trước cũng trúng tên lửa bốc cháy, tôi lại hô: “Nhảy dù” lần nữa nhưng cũng không thấy động tĩnh gì. Tôi đoán, số 2 Khảo đã bắn rơi 1 chiếc F-4, nhưng ngay sau đó, do không động cơ kịp thời đã bị chiếc F-4 phía sau bắn rơi.
Khi thấy 1 chiếc F-4 phía trước, tôi nhanh chóng bám theo, đặt điểm ngắm rồi phóng 1 quả tên lửa. Cũng không kịp quan sát kết quả, tôi lập tức lật úp máy bay, kéo xuống thoát ly, tôi kéo máy bay ra ở độ cao thấp, rồi bay sát ngọn cây rừng Tam Đảo, ép sát dãy núi để tận dụng núi che chở một bên, chỉ phải quan sát, cảnh giới một bên. Khi về đến ngang hồ Đại Lải thì nghe thông báo có một tốp F-4 bay từ Hòa Lạc sang đang bay phong tỏa chế áp sân bay Nội Bài, tôi quyết định chuyển hướng về sân bay Kép hạ cánh.
Khi kéo máy bay về ụ cất giấu, các đồng chí thợ máy bất ngờ và kinh ngạc phát hiện ra hàng chục lỗ thủng trên thân chiếc MiG-21 của tôi. Tất cả có hơn 30 lỗ to nhỏ khác nhau chạy suốt từ đuôi lên thân và cánh, kể cả chóp nón cũng bị, riêng buồng lái không có vết nào…”.
(Còn tiếp)