Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Ban Biên giới của Chính phủ, một học giả rất có uy tín về các vấn đề pháp lý biển, đảo.
Tại hội thảo quốc tế “Quy chế pháp lý của đảo, đá trong luật quốc tế và thực tiến Biển Đông”, ông đã có bài tham luận quan trọng “Quy chế pháp lý của các cấu trúc địa lý ở quần đảo Trường Sa”
PetroTimes xin giới thiệu với bạn đọc.
Điều 121 UNCLOS1982 quy định:
“1. Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước.
2. Với điều kiện phải tuân thủ Khoản 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của hòn đảo được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác.
3. Những hòn đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.”
Như vậy, theo quy định của UNCLOS 1982 thì chỉ có 2 loại thực thể địa lý:
Một là “đảo”, cấu thành một cách tự nhiên bởi đất, đá, rạn san hô, cát, sỏi… phải luôn luôn nổi lên trên mặt nước khi thủy triều lên cao nhất.
Hai là các thực thể địa lý không phải là đảo, bất kể là đất, đá, san hô, cát sỏi…, nếu chúng lúc nổi, lúc chìm, hay chìm hoàn toàn dưới mực nước khi thủy triều lên hay xuống.
Khoản 3, Điều 121, UNCLOS 1982 đã quy định rất rõ hiệu lực khi xác lập vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của chúng:
Đảo nào thích hợp cho đời sống của con người và có đời sống kinh tế riêng thì có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Còn đảo nào không thích hợp cho người sinh sống và không có đời sông kinh tế riêng thì chỉ có lãnh hải không quá 12 hải lý, không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Như vậy theo phán quyết trọng tài của Tòa thì đảoTrường Sa, Nam Yết, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Ba Bình, Thị Tứ…vẫn là đảo đúng theo quy định tại Khoản 1, Điều 121, UNCLOS 1982, cho dù chúng không đủ điều kiện để xác lập vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý.
Các thực thể là đảo hay không phải là đảo, nếu tồn tại cách bờ biển đất liền hay một đảo dưới 12 hải lý, thì có thể sử dụng để làm điểm cơ sở để vạch đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải cho bờ biển đất liền hay đảo đó.
Tuy nhiên điều kiện để các thực thể không phải là đảo được dùng làm điểm cơ sở để vạch đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải là phải xây dựng trên đó một công trình nhân tạo nổi. Còn nếu chúng ở cách bờ biển đất liền hay một đảo trên 12 hải lý thì không được sử dụng làm điểm cơ sở để vạch đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Các công trình nhân tạo, kể cả là đảo nhân tạo được xây dựng trên đó chỉ được phép xác lập một vùng an toàn bán kính 500 m bao quanh các công trình nhân tạo đó.
Các thực thể là đảo, kể cả các đảo thuôc một quần đảo xa bờ, nếu ở cách bờ đất liền hay bờ của một đảo khác trên 12 hải lý thì từng đảo đều có đường cơ sở để tính phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của chúng. Tất nhiên, đối với các đảo không thích hợp cho người ở và không có đời sống kinh tế riêng thì chỉ có lãnh hải rộng không quá 12 hải lý.
Phán quyết Tòa Trọng tài đã giải thích rõ như sau:
– Các cấu trúc nổi khi thủy triều lên cao sẽ tạo ra quyền ít nhất đối với lãnh hải 12 hải lý, trong khi các cấu trúc chìm khi thuỷ triều lên cao sẽ không tạo ra quyền như vậy.
– Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự nhiên của chúng và dựa vào các tài liệu lịch sử để đánh giá các cấu trúc.Các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa, nhưng các “đảo đá không thích hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”. Quy định này phụ thuộc vào khả năng khách quan của các cấu trúc khi chúng ở tình trạng tự nhiên để có thể duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc các hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài hoặc hoàn toàn chỉ có tính chất khai thác. Sự có mặt của các nhân viên công vụ trên các cấu trúc là phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài và không phản ánh khả năng của các cấu trúc.
– Quần đảo Trường Sa trong lịch sử được sử dụng bởi một số nhóm nhỏ các ngư dân và đã có một vài hoạt động khai thác phân dơi và đánh cá của Nhật Bản. Việc việc sử dụng ngắn hạn như vậy không phải là sự định cư của một cộng đồng ổn định và rằng các hoạt động kinh tế trong lịch sử chỉ là hoạt động mang tính khai thác.
Vì vậy, không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng. Tòa cũng quyết định rằng các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất.
Tuy nhiên, có người đặt câu hỏi bãi cạn Vành Khăn, Cỏ Mây… là những rặng san hô, bãi cát ngầm ngập hoàn toàn dưới mặt nước biển được Tòa xác định là nằm trong vùng đặc quyền kinh tế theo đề nghị của Philippines có ảnh hưởng gì đến chủ quyền của Việt Nam với Trường Sa nói chung hay 2 thực thể này nói riêng hay không?
Về vấn đề này, Tòa đã nói rất rõ: Phán quyết của Tòa không giải quyết vấn đề chủ quyền/ phân định biển.
Vậy có thể hiểu là, riêng vấn đề chủ quyền đối với Vành Khăn, Cỏ Mây thì Tòa không ra phán quyết, mà sẽ được các bên liên quan giải quyết về vấn đề chủ quyền lãnh thổ theo nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ.
Lúc đó sẽ phải chứng minh Vành Khăn, Cỏ Mây… về mặt địa chất, địa mạo là một phần của Trường Sa hay một phần thềm lục địa của một quốc gia nào đó theo quy định của UNCLOS1982. Tất nhiên, khi bàn thảo về nội dung này, người ta không thể không đề cập đến quần đảo Trường Sa bao gồm những thực thể nào, phạm vi của nó đến đâu? Về vấn đề này, hiên nay chưa có bên liên quan nào đã công bố chi tiết, chính thức. Chẳng hạn, khi xác lập chủ quyền hợp pháp đối với Trường Sa từ khi quần đảo này còn là đất vô chủ, nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ đã xác định chung chung rằng quần đảo này bao gồm “các đảo và các thực thể phụ thuộc”. Vấn đề là các thực thể phụ thuộc đó nằm ở đâu và gồm có bao nhiêu? Các bên liên quan sẽ còn cùng nhau xem xét sau. Nếu nghiêm túc dựa vào các quy định của UNCLOS, đối chiếu với trạng thái tự nhiên của chúng trên thực tế và với một thái độ thật sự cầu thị, thiện chí, khách quan, chắc chắn sẽ tìm ra được những đáp số chuẩn xác nhất. Phán quyết của Tòa Trong tài lần này cũng sẽ là tiền đề giúp cho các bên liên quan thực hiện được phép tính khó khăn này.
Phán quyết của Tòa Trọng tài đã cho cung cấp và giải thích cho chúng ta những khái niệm pháp lý rất chính xác và rõ ràng; giúp cho chúng ta có căn cứ pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ich hợp pháp của mình trong Biển Đông trước những tính toán giải thích và áp dụng sai các quy định của Công ước LB 1982 của Trung Quốc hòng độc chiếm Biển Đông, không chỉ những nội dung mà Phán quyết Trọng tài đã tuyên, mà còn các nội dung khác nữa; chẳng hạn: Trung Quốc từng giải thích và áp dụng sai Điều 47, UNCLOS 1982 để công bố hệ thống đường cơ sở thẳng để tính chiều rộng lãnh hải của cả quần đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng, Việt Nam) năm 1996.
Đây cũng là ví dụ điển hình cho việc giải thích và áp dụng sai UNCLOS 1982 của Trung Quốc. Họ cũng đang có phương án lặp lại điều tương tự ở Trường Sa. Tuy nhiên, với phán quyết này, Tòa đã cảnh báo và ngăn chặn tính toán này của Trung Quốc.
Còn Việt Nam chúng ta cũng như một số bên liên quan cho đến nay mới chỉ đưa ra những quy định mang tính nguyên tắc về các vùng biển tạo ra bởi các thực thể ở Trường Sa, Hoàng Sa theo UNCLOS 1982 chứ chưa công bố phạm vi cụ thể của các vùng biển này theo UNCLOS 1982. Vì vậy, có không ít người cho rằng Việt Nam cũng nên xác lập vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho một số thực thể ở Trường Sa với hy vọng sẽ “dễ quản lý”, vì không muốn để Trung Quốc và các thế lực khác dễ dàng qua lai tự do trong vùng nước nằm ở khoảng giữa các thực thể này; vì sẽ gây bất lợi cho việc phòng thủ, bảo về đảo. Tuy nhiên, điều đó có thể gây nên hiệu ứng “lợi bất cập hại”, vô tình “vẽ đường cho hươu chạy”.
Chính phán quyết cuối cùng của Tòa, một mặt cho thấy chúng ta không thể áp dụng và giải thích UNCLOS 1982 một cách tùy tiện để phục vụ những mục đích ngắn hạn, nhất thời. Mặt khác, chúng ta càng làm rõ yêu sách các vùng biển tạo ra bởi các thực thể nằm trong quần đảo Trường Sa mà chúng ta có chủ quyền, cũng như những thực thể chúng ta đang quản lý, thực thi chủ quyền trong thực tế, sẽ càng góp phần vào việc thượng tôn pháp luật, bảo vệ UNCLOS 1982 và hạn chế bớt những mâu thuẫn, tranh chấp có thể nảy sinh do tình trạng nhập nhằng đang diễn ra trên thực tế.
Để làm được điều này, một lần nữa chúng ta cần nghiên cứu kỹ UNCLOS 1982 và Phán quyết của Tòa để hiểu cặn kẽ, từ những khái niệm hết sức cơ bản, bởi hiện nay vẫn còn nhiều nhận thức hết sức mơ hồ. Những nhận thức này cũng có lúc đã tác động đến chủ trương, phương án xử lý trên thực tế một số tình huống xảy ra như: Xác nhận phạm vi đâu là nội thủy, đâu là lãnh hải, đâu là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, đâu là vùng chồng lấn, vùng nhạy cảm… Bởi quy chế và phương thức đấu tranh, ứng xử trong từng tình huống ở mỗi vùng biển khác nhau là hoàn toàn khác nhau. Điều này có ảnh hưởng đến hiệu quả của những phương án đấu tranh về pháp lý, an ninh, quốc phòng; có tác động tích cực hoặc tiêu cực về mặt đối nội, đối ngoại, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, trên mặt trận đấu tranh dư luận.
Như vậy, nội dung phán quyết của Hội đồng Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, UNCLOS 1982, tuyên về hiệu lực của các thực thể địa lý ở quần đảo Trường Sa như phân tích ở trên, rõ ràng đã cung cấp cho chúng ta những kiến thức pháp lý hết sức có giá trị để vận dụng trong thực tế có hiệu quả nhất. Thiết thực nhất là Phán quyết sẽ có tác động tích cực để gỡ được nút thắt của tiến trình ASEAN và Trung Quốc gặp phải trong quá trình tiến hành tham vấn, đàm phán để ký được một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) mà ai ai cũng đang kỳ vọng. Sở dĩ trước đây COC không đi đến đâu vì tranh cãi chủ yếu xung quanh phạm vi áp dụng nó. Vì muốn hợp thức hóa yêu sách “đường lưỡi bò”, Trung Quốc đòi hỏi phạm vi điều chỉnh của COC phải nằm trong toàn bộ phạm vi đường 9 đoạn.
Và tất nhiên không một quốc gia nào ven Biển Đông chấp nhận điều phi lý này. COC không thể ký kết được chính là do cái nút thắt này. Hy vọng phán quyết sẽ giúp cho các bên có được công cụ và phương pháp để tháo gỡ nó nhằm nhanh chóng ký kết được COC.
Chúng ta hoan nghênh và đánh giá cao Phán quyết của Tòa Trọng tài không phải vì Phán quyết này có lợi cho riêng một quốc gia nào.Cũng không phải vì có thể lợi dụng nó phục vụ cho động cơ chính trị, nhằm thỏa mãn cảm xúc thắng thua, cắn xé lẫn nhau trong cuộc cạnh tranh quyền lực đang diễn ra khốc liệt trên phạm vi khu vực và thế giới.
Cái chính là chúng ta cần phải xem phán quyết này là thằng lợi chung của luật pháp, công lý và phải có trách nhiệm sử dụng nó như là một công cụ hữu ích để gìn giữ hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển vì sự sống còn của nhân loại.