Mỗi thành viên ASEAN phải coi đây là lợi ích của chính mình, phải coi lợi ích của toàn Hiệp hội gắn liền với lợi ích quốc gia mình. ASEAN cần thống nhất, đoàn kết hơn nữa trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông, tránh ngón đòn “chia để trị” của Trung Quốc.
Diễn đàn ARF lần thứ 14 tại Manila, Philippines
Phản đối “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông, tránh đưa tranh chấp ra các cơ chế tài phán quốc tế
Trung Quốc luôn phớt lờ yêu cầu đàm phán với Việt Nam giải quyết vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, luôn yêu cầu đàm phán song phương với từng nước tranh chấp chủ quyền ở Trường Sa, khước từ bên thứ ba can thiệp vào những tranh chấp trên Biển Đông vì muốn dùng áp lực nước lớn “nói chuyện” với các nước nhỏ; phản đối Phi-líp-pin, Việt Nam đưa vấn đề tranh chấp ra Tòa Trọng tài thường trực quốc tế (PCA). Trung Quốc né tránh sử dụng Luật pháp Quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982, chứng tỏ Trung Quốc yếu thế về cơ sở pháp lý trong các yêu sách chủ quyền phi lý của họ trên Biển Đông.
Gần đây Trung Quốc chủ động yêu cầu Tổng Thư ký LHQ cho lưu hành bức thư vu khống Việt Nam cản trở hoạt động của Trung Quốc ở Hoàng Sa, dùng tàu chủ động đâm các tàu công vụ của Trung Quốc v.v…đến tất cả 193 quốc gia thành viên của tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh này. Khỏi phải nói Trung Quốc “đổi trắng thay đen”, ngược đời và nực cười đến mức nào khi vu cáo Việt Nam như vậy (!).
Thử hỏi: nếu đã gửi công hàm “phản đối” Việt Nam lên Tổng Thư ký LHQ thì liệu Trung Quốc có chấp thuận để tổ chức này phân xử tranh chấp không? Chắc chắn là không. Sự chỉ trích của cộng đồng quốc tế trước những hành động của Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ và việc Trung Quốc gửi “thư phản đối” lên Tổng Thư ký LHQ không chỉ để che giấu sự thật đã bị Việt Nam vạch trần trước đó, mà còn là một nỗ lực làm giảm bớt sự phản đối Trung Quốc trong dư luận thế giới. Phải chăng, Trung Quốc gửi thư này là muốn LHQ sẽ “hợp thức hóa” việc họ hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển của Việt Nam? Kháng thư gửi LHQ cho phép người ta hiểu rằng, Trung Quốc sẽ có những bước leo thang mới trên Biển Đông và tìm cách xoa dịu trước những tác động tiêu cực tiềm tàng do hành động của họ gây nên.
ASEAN cần làm gì?
Việc Trung Quốc vi phạm UNCLOS 1982, vi phạm DOC, trì hoãn đàm phán thực chất COC, trắng trợn hạ đặt giàn khoan vào sâu vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, phớt lờ phản ứng của cộng đồng quốc tế…, báo hiệu một tương lai khó xác định về hiện thực hóa và tính màu nhiệm của COC. Các nước ASEAN (và cộng đồng quốc tế) cần nhận rõ những thủ đoạn trên, để tìm ra những biện pháp hiệu quả ngăn cản chiến lược của Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. ASEAN cần và có thể thực hiện một số biện pháp sau để hạn chế tham vọng của Trung Quốc:
Nâng cao nhận thức và trách nhiệm chính trị của mỗi thành viên
Hơn lúc nào hết, ASEAN cần có nhận thức đi cùng một quyết tâm và trách nhiệm chính trị cao hơn. Trong số các nước có yêu sách đòi chủ quyền ở Biển Đông, thì bốn nước ASEAN (gồm Việt Nam, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a và Bru-nây) có tranh chấp trực tiếp tại vùng biển này. Các nước khác như In-đô-nê-xi-a, Xinh-ga-po, Thái Lan và Cam-pu-chia là những nước nằm ven bờ Biển Đông, đều chia sẻ lợi ích chiến lược to lớn, cả kinh tế, tự do thương mại, lẫn an ninh và quốc phòng. Tuy Mi-an-ma không nằm trên bờ Biển Đông, nhưng Biển Đông là con đường thông thương hàng hải thuận lợi nhất cho nước này trong phát triển quan hệ với các nước ven bờ Thái Bình Dương, khi tuyến Hành lang Kinh tế Đông – Tây thuộc Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng trở nên thuận tiện, thì lợi ích của Mi-an-ma sẽ được nhân lên nhiều lần. Tuy không có biển, nhưng Lào cũng được hưởng lợi lớn khi sử dụng giao thông hàng hải cũng như được tham gia đánh bắt lượng hải sản dư thừa sau khi Việt Nam hoàn thành tính toán nhu cầu, mức độ, khả năng đánh bắt hải sản của ngư dân Việt Nam ở Biển Đông. Do vậy, một khi tranh chấp Biển Đông leo thang không chỉ đe dọa lợi ích quốc gia – dân tộc của các nước ASEAN ven bờ, mà còn làm xấu đi môi trường hợp tác và phát triển của toàn khối, nhất là quan hệ của ASEAN và các nước thành viên với các đối tác bên ngoài, trước hết là với Trung Quốc, Nhật Bản v.v… Các nước Đông Nam Á, nhất là các nước có yêu sách chủ quyền, dù muốn hay không, đều phải dành ngân sách nhiều hơn cho chi phí quốc phòng, làm gia tăng cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực. Điều đó không chỉ làm tổn hại đến đầu tư phát triển kinh tế, mà còn làm tăng nghi kỵ về an ninh.
Một vấn đề khác không kém phần quan trọng là ASEAN đang nỗ lực hiện thực hóa Cộng đồng, trong đó có Cộng đồng An ninh – Chính trị (APSC) vào cuối năm 2015. Những nội dung và phương thức xây dựng APSC như “xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử” và hợp tác, tìm kiếm, thiết lập các định chế để “ngăn ngừa xung đột” trong ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài được xác định rõ trong Kế hoạch hành động năm 2004 và trong Kế hoạch Tổng thể APSC năm 2009. Như vậy, việc tham gia giải quyết mâu thuẫn, tạo lập các cơ chế để củng cố lòng tin, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi của ASEAN.
Mỗi thành viên ASEAN phải coi đây là lợi ích của chính mình, phải coi lợi ích của toàn Hiệp hội gắn liền với lợi ích quốc gia mình. ASEAN cần thống nhất, đoàn kết hơn nữa trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông, tránh ngón đòn “chia để trị” của Trung Quốc. Chính sự thiếu gắn kết, thống nhất về lập trường chung và thái độ “cầm chừng” của ASEAN và một số nước thành viên trong việc thực thi các thỏa thuận đã ký kết ở cấp độ khu vực và toàn cầu liên quan đến Biển Đông (như DOC), hay UNCLOS 1982 cũng như việc chậm thông qua và ban hành COC đã và đang cản trở hiện thực hóa COC và là sự “ngầm khuyến khích” những hành động trắng trợn, ngang ngược của Trung Quốc muốn dùng vũ lực để thay đổi hiện trạng như thời gian vừa qua.
Hơn nữa, việc tham gia ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông còn giúp ASEAN duy trì và củng cố vai trò trung tâm, động lực thúc đẩy, kết nối, kiến tạo các cơ chế hợp tác đa phương ở châu Á – Thái Bình Dương, nhất là vai trò của ASEAN trong Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN và các nước đối tác(ADMM+). Điều đó làm tăng sức đề kháng của ASEAN và các nước thành viên trước sức ép gia tăng về địa – chính trị do cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, trước hết là giữa Mỹ và Trung Quốc; đồng thời làm tăng sức hấp dẫn và tính hiệu quả của ASEAN và các nước thành viên trong việc mở rộng hợp tác với các đối tác bên ngoài, đưa vị thế của ASEAN lên tầm cao mới, củng cố vị thế của ASEAN như là một nhân tố không thể thiếu trong kiến tạo môi trường hòa bình, cũng như các cơ chế hợp tác đa phương đã và đang hình thành ở khu vực. Như vậy, việc ASEAN tham gia giải quyết mâu thuẫn, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông đạt được ba mục đích: góp phần hiện thực hóa APSC; hạn chế ASEAN và các nước thành viên rơi vào vòng xoáy cạnh tranh địa – chính trị của các nước lớn, duy trì vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang hình thành và góp phần giảm thiểu thế độc quyền chiến lược của một số nước lớn, trước hết là Mỹ và Trung Quốc, ở khu vực này, làm tăng phần hợp tác, chia sẻ lợi ích giữa họ và giữa họ với các nước ASEAN.
Kết quả đó đã và sẽ góp phần củng cố môi trường hợp tác và an ninh khu vực, trong đó chủ quyền quốc gia – dân tộc của các thành viên ASEAN sẽ được tôn trọng. Như vậy, có thể nói, việc ASEAN tham gia giải quyết mâu thuẫn, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông vừa là trách nhiệm, vừa là lợi ích chiến lược của tổ chức này cũng như của mỗi quốc gia thành viên. Đây cũng là một trong những phép thử đối với hiện thực hóa APSC.
ASEAN cần sớm hoàn chỉnh cơ chế ra quyết định những vấn đề trọng yếu
Nếu nguyên tắc đồng thuận (concensus) phát huy tác dụng từ ngày ASEAN ra đời tới nay, thì gần đây nguyên tắc này đã bộc lộ những hạn chế, làm giảm tính tập trung, thống nhất mạnh mẽ cần có của Hiệp hội. ASEAN cần dũng cảm điều chỉnh nguyên tắc concensus khi ra quyết định tập thể, coi đây là một trong những điểm mấu chốt, quan trọng nhất để ASEAN đạt được thống nhất nội bộ trước khi giải quyết tranh chấp.
Đồng thời cần nghiên cứu áp dụng bổ sung cơ chế đảm bảo thống nhất, phát huy trách nhiệm và kế thừa liên tục chính sách chung của ASEAN qua các nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN theo kiểu “troika”. Hai nội dung cần đổi mới trên đây trước hết cần thiết cho các phương án đấu tranh về Biển Đông nói riêng cũng như cho việc xây dựng Cộng đồng ASEAN nói chung.
Từ Hội nghị Cấp cao ASEAN – 24 đến nay, ngày càng có thêm thành viên ASEAN thể hiện tiếng nói trách nhiệm trong vấn đề Biển Đông, chứng tỏ bước chuyển mạnh mẽ trong nhận thức về trách nhiệm chính trị và lợi ích chiến lược của Hiệp hội, bởi ngăn ngừa và quản lý xung đột ở Biển Đông là phép thử đối với sự tồn tại và phát triển ASEAN trong những năm sắp tới. Các thành viên ASEAN không có yêu sách đòi chủ quyền cần ủng hộ lập trường mà các nước ASEAN có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông (Việt Nam, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a, Bru-nây) đã thống nhất với nhau, nhằm tạo đồng thuận trong đàm phán đa phương.
(còn tiếp)