Phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN thường niên, tại Singapore, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường (13/11) cho biết, Trung Quốc hy vọng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) sẽ được đàm phán thành công trong thời gian 3 năm tới, vì lợi ích giữ vững và duy trì hòa bình trong khu vực. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (20/11) tái cam kết sẽ kết thúc đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) trong ba năm tới, nhằm đóng góp cho “hòa bình, ổn định và lợi ích” của khu vực. Trong khi đó, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte (14/11) thông báo, tới năm 2019, ASEAN và Trung Quốc sẽ hoàn tất “Văn bản dự thảo sơ bộ COC” (Single Draft COC Negotiating Text, gọi tắt là Văn bản SDNT), sẽ dùng cho thương lượng, đàm phán COC sắp tới.
Mâu thuẫn trong hành động và phát ngôn của Trung Quốc về COC
Lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc đưa ra các cam kết về việc thúc đẩy đàm phán và đặt mục tiêu sẽ đạt được COC trong 3 năm tới cho thấy Trung Quốc đang chủ động bày tỏ quyết tâm cùng các nước ASEAN tiến hành đàm phán để sớm có được COC. Động thái này của Bắc Kinh được cho là nhằm đáp ứng nguyện vọng của cộng đồng khu vực và quốc tế trong bối cảnh tranh chấp về địa – chính trị, địa -chiến lược, địa – kinh tế phức tạp hiện nay.
Tuy nhiên, hành động của Trung Quốc trên thực địa lại trái ngược với những gì Bắc Kinh tuyên bố, cụ thể: (1) Năm 1995, Trung Quốc xâm chiếm đá Vành Khăn (Mischief Reef) đang do quân đội Philippines chiếm giữ. Hoạt động này của Trung Quốc là sự nối tiếp hàng loạt các hành động sử dụng vũ lực xâm chiếm một số thực thể địa lý trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam năm 1988; sau đó, tiến hành đào bới, bồi đắp, xây dựng các đảo nhân tạo và tiến hành các hoạt động quân sự hóa quy mô lớn tại các đảo đá thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. (2) Năm 1996 các thành viên ASEAN đã đề xuất ý tưởng cùng Trung Quốc tiến hành xây dựng Quy tắc ứng xử trong Biển Đông, song phía Trung Quốc không chấp nhận và cố tình trì hoãn để có thời gian ra tuyên bố đường cơ sở quần đảo Hoàng Sa năm 1996, thông qua Luật Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 1998, công bố lệnh cấm đánh bắt cá từ năm 1999 nhằm củng cố sự hiện diện của mình ở Biển Đông. (3) Năm 2002, Trung Quốc và ASEAN thông qua Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), song nó chỉ là một văn kiện chính trị, không mang tính ràng buộc về pháp lý. Từ khi có DOC, Trung Quốc và ASEAN liên tục tiến hành đàm phán nhằm sớm có COC, song tất cả nỗ lực của các bên liên quan đều rơi vào bế tắc. (4) Đến năm 2013, Trung Quốc mới đồng ý cùng với các nước ASEAN gặp nhau để “tham vấn” về COC và cho đến tận Tháng 8/2017, Trung Quốc và ASEAN mới nhất trí thông qua Khung COC, đây được coi là bước khởi đầu cho tiến trình đàm phán thực chất COC có hiệu lực và ràng buộc về pháp lý, giúp ngăn chặn tranh chấp leo thang trên Biển Đông. Tuy nhiên gần một năm kể từ thời điểm Dự thảo khung này được thông qua, cho đến nay các bên vẫn chưa cho thấy có dấu hiệu tích cực nào về việc COC sẽ sớm trở thành một bộ luật có tính ràng buộc về mặt pháp lý. (5) Sau khi “Dự thảo khung COC” được thông qua, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị từng tuyên bố các đàm phán đáng kể về nội dung của COC sẽ chỉ có thể bắt đầu nếu “không có sự phá hoại lớn từ các bên bên ngoài”, một lời ám chỉ úp mở về Mỹ, nước mà Trung Quốc luôn cáo buộc là “can thiệp” vào cuộc tranh chấp. Thực chất, căn cứ vào tình trình xây dựng COC giữa Trung Quốc và ASEAN, cũng như những gì mà Trung Quốc đã nói và làm trên thực tế, dư luận đều nhận thấy rằng: Quá trình đàm phán COC đã kéo quá dài và gắp quá nhiều khó khăn, không phải do sự can thiệp của bên thứ 3 mà do chính phía Trung Quốc. (6) Tháng 8/2018, Trung Quốc và ASEAN đã nhất trí về văn bản duy nhất để tiếp tục các đàm phán về COC, đây là thành công lớn nhất giữa Trung Quốc và ASEAN về COC trong năm 2018.
Mâu thuẫn giữa Trung Quốc và ASEAN về COC: Trung Quốc thì cho rằng COC vẫn là một văn kiện chính trị, trong khi đó, một số thành viên ASEAN, đặc biệt là các nước có liên quan trực tiếp đến vấn đề tranh chấp Biển Đông, đã đề nghị COC phải là một thỏa thuận ràng buộc pháp lý và phải được đề cập một cách toàn diện và hiệu quả hơn DOC, vốn chỉ là một tuyên bố chính trị. Theo đó, ngoài các điều khoản chi tiết và cụm từ “có tính ràng buộc về mặt pháp lý”, có một vài vấn đề quan trọng không được đưa vào thỏa thuận. (1) Dự thảo khung này không đề cập đến phạm vi địa lý của COC. (2) Trong khi văn bản này đề cập đến “các cơ chế giám sát việc thực thi”, nó lại không nói gì đến các biện pháp chế tài trong trường hợp nếu một bên cáo buộc một bên khác vi phạm bộ quy tắc này.
Các nước liên quan liên tục đưa ra các tuyên bố kêu gọi sớm thông qua COC
Đại biện Lâm thời tại Phái đoàn Ngoại giao Mỹ ở ASEAN Piper Campbell cho biết, đã đến lúc cần có một bộ quy tắc ràng buộc ở Biển Đông, nhấn mạnh khuôn khổ này cần đảm bảo tôn trọng tự do trên biển và trên không, tôn trọng quyền của các bên liên quan và luật quốc tế, trong đó có Công ước Luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc (UNCLOS). Theo bà Campbell, tại cuộc họp cấp cao Mỹ – ASEAN và Diễn đàn Đông Á (EAS) ở Singapore, Phó tổng thống Pence đã đưa thông điệp mạnh mẽ nhất của Mỹ, đó là coi ASEAN là trung tâm trong chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương mở và tự do; đồng thời khẳng định Mỹ sẽ tiếp tục duy trì hiện diện và đóng góp đảm bảo hoà bình, an ninh, ổn định tự do và an toàn hàng hải, không quân sự hoá trên Biển Đông, tránh đối đầu, khuyến khích các bên liên quan thực hiện đầy đủ DOC, hướng tới sớm hoàn tất đàm phán COC hiệu quả và ràng buộc.
Thủ tướng Australia Scott Morrison (14/11) nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ Đối tác Chiến lược ASEAN – Australia đối với hòa bình, ổn định, thịnh vượng ở khu vực; ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực rộng mở, minh bạch và dựa trên luật lệ; cho biết Australia ủng hộ lập trường của ASEAN về duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do, hàng hải và hàng không ở Biển Đông, giải quyết hòa bình các tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế, triển khai đầy đủ DOC và nỗ lực xây dựng COC hiệu quả.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe thể hiện sự ủng hộ lập trường của ASEAN trong việc duy trì hòa bình, ổn định và an ninh, tự do an toàn hàng hải và hàng không trên Biển Đông, đồng thời kêu gọi sớm thông qua COC.
Ngoại trưởng Malaysia Saifuddin Abdullah cho rằng việc Bắc Kinh xây dựng trái phép và triển khai vũ khí trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông khiến các nước ASEAN lo ngại; nhấn mạnh tất cả các bên cần tránh những bước đi khiêu khích, có thể gây căng thẳng trong lúc tự kiềm chế và tránh các hành động quân sự; đồng thời nhận định COC hiệu quả hơn DOC trong việc bảo đảm hòa bình tại vùng biển quan trọng với hoạt động thương mại toàn cầu này. Trước đó, Ngoại trưởng Philippines Alan Peter Cayetano (30/7) cho rằng các cuộc đàm phán về COC có thể được kết thúc trong năm nay hoặc năm tới.
Trung Quốc thúc đẩy đàm phán COC là do: (1)Để cứu vãn uy tín do Phán quyết Tòa Trọng tài quốc tế (7/2016) đã thẳng thừng bác bỏ yêu sách phi lý theo “đường lưỡi bò” của Trung Quốc ở Biển Đông, Bắc Kinh muốn đánh lạc hướng sự chỉ trích việc nước này bác bỏ phán quyết của Tòa trọng tài. (2) Mặc dù phán quyết hoàn toàn ủng hộ Philippines, ông Duterte đã quyết định đặt nó sang một bên và ưu tiên tăng cường quan hệ kinh tế với Trung Quốc song song với việc tiến hành đàm phán song phương để giải quyết các yêu sách về chủ quyền và quyền tài phán chồng chéo giữa hai nước. Việc hạ nhiệt căng thẳng giữa Philippines và Trung Quốc cũng có thể đã góp phần cải thiện bầu không khí trong quan hệ ASEAN-Trung Quốc. Trong nửa đầu năm 2017, các quan chức ASEAN và Trung Quốc đã gặp gỡ 3 lần để thảo luận COC. Tại cuộc họp Nhóm công tác chung ASEAN-Trung Quốc lần thứ 19 về thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (JWG-DOC) ở Bali, Indonesia, ngày 27/2/2017, hai bên đã nhất trí về phác thảo cơ bản của dự thảo khung. Sau đó đã được thảo luận tại JWG-DOC lần thứ 20 ở Siem Reap, Campuchia, vào ngày 30/3/2017. Dự thảo này đã được sửa đổi đôi chỗ trong các cuộc họp SOM-DOC ở Quý Dương vào tháng 5/2017. Đến tháng 8/2017, “Dự thảo khung COC” mới được thông qua. Nhưng giá trị ràng buộc về mặt pháp lý của COC được đề xuất cho đến nay vẫn chưa được làm rõ.
Triển vọng về COC trong thời gian tới
Tuy được Trung Quốc và ASEAN thúc đẩy đàm phán, song vẫn còn gặp nhiều khó khăn để đạt được COC trong thời gian sắp tới. Nguyên nhân chính là do có những tranh chấp phức tạp về mặt pháp lý trong việc xác lập các vùng biển và thềm lục địa xuất phát từ việc giải thích và áp dụng khác nhau các quy định của UNCLOS 1982; tranh chấp chủ quyền đối với các đảo, đá ở Biển Đông. Đặc biệt là một số thành viên khi tham gia với những động cơ chính trị khác nhau, tiêu biểu là Trung Quốc, một thành viên đã có những hoạt động vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia khác xung quanh Biển Đông, bất chấp luật pháp quốc tế và các cam kết chính trị đã đạt được. Trung Quốc đã và đang tìm cách trì hoãn quá trình thương thảo để tranh thủ tạo được lợi thế trong đàm phán về COC. Chừng nào yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc chưa được hợp thức hóa trong việc xác lập phạm vi điều chỉnh COC thì chừng đó không thể có được COC. Điều đó đồng nghĩa với việc Trung Quốc phải thực hiện bằng được chiến lược độc chiếm Biển Đông, dùng Biển Đông để vươn lên tranh giành vị trí siêu cường số một thế giới đối trọng với Mỹ. Và như vậy có thể thấy rằng cái gọi là “đã đạt được bản thảo đầu tiên của COC” do Trung Quốc chủ động thông tin là cố ý thổi phồng, nhằm mục đích tuyên truyền, mê hoặc dư luận vì động cơ chính trị. Có chăng chỉ có thể là “đã đạt tiến triển tốt trong việc xây dựng “Khung COC với Trung Quốc” như phía Philppines thông báo.
Vụ trưởng Vụ các vấn đề ASEAN của Thái Lan Suriya Chindawongse cho biết, tiến trình đàm phán sẽ mất nhiều thời gian để đi đến kết quả cuối cùng và COC không phải là phương thức để giải quyết tranh chấp lãnh thổ mà vấn đề này sẽ được giải quyết trên cơ sở song phương. Trong khi đó, Đại sứ Trung Quốc tại ASEAN Hoàng Khê Liên cũng cho biết, do vẫn chưa có COC, Trung Quốc và các nước ASEAN sẽ tiếp tục thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC nhằm đạt được COC trong thời gian sớm nhất; nhấn mạnh Trung Quốc cũng mong muốn rằng các nước ngoài khu vực có thể đóng vai trò xây dựng trong tiến trình này và đóng góp vào hòa bình và ổn định của khu vực. Ông Hoàng Khê Liên cho rằng việc thực hiện DOC trong khi đàm phán COC tạo ra nền tảng hiệu quả để duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông thông qua tăng cường đối thoại và hợp tác, “là minh chứng cho thấy Trung Quốc và ASEAN có sự sáng suốt và khả năng xây dựng các quy định và quản lý đúng đắn các tranh chấp vì hòa bình và ổn định ở Biển Đông”.
Không những vậy, Trung Quốc cũng đang âm thầm cản trở COC vì: (1) Trung Quốc tiếp tục tiến hành các hoạt động quân sự hóa trên Biển Đông, đồng thời tìm cách tăng cường khả năng quản lý, giám sát (phi pháp) đối với khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và ngăn chặn ngư dân Philippines tiếp cận bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham. Những hành động trên của Trung Quốc tiếp tục làm xói mòn lòng tin, làm gia tăng căng thẳng và có thể ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh và sự ổn định trong khu vực. (2) Trung Quốc không muốn có một COC mang tính ràng buộc pháp lý, vì cho rằng nếu COC mang tính ràng buộc về pháp lý sẽ ngăn chặn âm mưu độc chiếm Biển Đông của Bắc Kinh. (3) Bắc Kinh muốn thông qua các cuộc đàm phán, tham vấn với ASEAN để nghiên cứu, nắm quan điểm của các nước ASEAN đối với Trung Quốc. Từ đó, Bắc Kinh sẽ đưa ra những đối sách cụ thể với từng nước, để lôi kéo hoặc ép buộc phải ủng hộ quan điểm của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Nói một cách khác, Trung Quốc vẫn muốn tìm cách chia rẽ ASEAN và chèn ép những nước “không nghe lời”.
Nhìn chung, để đạt được COC có tính ràng buộc pháp lý hoàn toàn phụ thuộc vào quyết tâm chính trị, sự đoàn kết thống nhất của các nước ASEAN; không để cho Trung Quốc tiếp tục lợi dụng tiến trình này để che đậy các hoạt động trên thực tế, xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia trong khu vực Biển Đông.