Wednesday, April 24, 2024
Trang chủBiển nóngBộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông: Con đường từ dự...

Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông: Con đường từ dự thảo khung đến thông qua COC vào năm 2021

Trong bối cảnh tình hình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đang ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là Trung Quốc liên tục có các hành vi vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước liên quan ở Biển Đông khiến việc tìm ra một giải pháp hữu hiệu, mang tính ràng buộc pháp lý còn gặp nhiều bế tắc. Việc ASEAN và Trung Quốc thông qua Khung COC và nỗ lực đàm phán COC là tín hiệu khả quan, tích cực nhằm góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực. Tuy nhiên, quá trình đàm phán để có COC trong 3 năm tới là tương đối khó khăn.

Thành quả của ASEAN và Trung Quốc khi thông qua Khung COC

Ngày 6/8/2017 ở Manila, Ngoại trưởng Trung Quốc và ASEAN đã thông qua dự thảo khung về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Dự thảo khung này trước đó đã được thông qua trong Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN-Trung Quốc về thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (SOM-DOC) ở Quý Dương, Trung Quốc ngày 19/5/2017.

Dự thảo khung được các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc chào đón rộng rãi. Trong Tuyên bố chung, Ngoại trưởng các nước ASEAN cho biết “được khích lệ” bởi việc thông qua dự thảo khung mà sẽ “thúc đẩy công tác ký kết một COC hiệu quả trong một khung thời gian các bên cùng nhất trí”. Tổng thư ký ASEAN Lê Lương Minh tuyên bố hy vọng dự thảo khung sẽ “mở đường cho các đàm phán có ý nghĩa và đáng kể tiến tới ký kết COC”, nhưng nói thêm rằng nếu bộ quy tắc này có hiệu quả trong việc ngăn ngừa và quản lý vụ việc ở Biển Đông, thì nó sẽ phải có tính ràng buộc về pháp lý.

Ngoại trưởng Singapore Vivian Balakrishnan đã gọi dự thảo khung là “một văn kiện quan trọng vì theo nghĩa nào đó nó đại diện cho sự đồng thuận và quan trọng hơn là, một cam kết nhân danh 10 nước ASEAN và Trung Quốc để tạo tiến triển cho vấn đề kéo dài từ lâu này”. Theo Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị, dự thảo khung “đem lại sự ổn định cho vấn đề này, thể hiện một động lực tích cực. Điều này cho thấy mong muốn chung của chúng ta là bảo vệ hòa bình và sự ổn định ở Biển Đông”. Tuy nhiên, đáng ngại hơn, Vương Nghị tiếp tục nói rằng các đàm phán đáng kể về nội dung của bộ quy tắc sẽ chỉ có thể bắt đầu nếu “không có sự phá hoại lớn từ các bên bên ngoài”, một lời ám chỉ úp mở về Mỹ, nước mà Trung Quốc luôn cáo buộc là “can thiệp” vào cuộc tranh chấp.

Quá trình đàm phán COC kéo dài và khó khăn. Tuyên bố chung ASEAN-Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) đã kêu gọi các bên thông qua COC. Sự khác biệt giữa DOC và COC được đề xuất chưa bao giờ được làm rõ, dù một số thành viên ASEAN, đặc biệt là các nước tuyên bố chủ quyền Đông Nam Á, đã vạch ra một thỏa thuận ràng buộc pháp lý sẽ toàn diện và hiệu quả hơn DOC vốn là một tuyên bố mang tính chính trị không ràng buộc.

Phải đến năm 2013, Trung Quốc mới đồng ý bắt đầu đàm phán với ASEAN về COC. Do những căng thẳng tăng cao ở Biển Đông, khi các cuộc thảo luận bắt đầu vào đầu năm 2014, một số thành viên ASEAN đã nhiều lần kêu gọi xúc tiến các cuộc đàm phán. Tuy nhiên, phải cho tới sau khi Tòa trọng tài ở La Haye ra phán quyết lịch sử vào ngày 12/7/2016 thì Trung Quốc mới đồng ý đẩy nhanh đàm phán. Có hai lý do có thể giải thích tại sao Trung Quốc đồng ý làm vậy. Thứ nhất, Bắc Kinh muốn đánh lạc hướng sự chỉ trích ra khỏi việc nước này bác bỏ phán quyết của Tòa trọng tài và thay vào đó tạo dựng hình ảnh một đối tác biết hợp tác. Thứ hai, phản ứng của Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte với phán quyết. Mặc dù phán quyết hoàn toàn ủng hộ Philippines, Duterte đã quyết định đặt nó sang một bên và ưu tiên tăng cường quan hệ kinh tế với Trung Quốc trong khi giải quyết các tuyên bố lãnh hải và quyền tài phán chồng chéo của hai nước trên cơ sở song phương. Cách tiếp cận của Duterte đã khiến căng thẳng Trung Quốc-Philippines giảm đáng kể ở Biển Đông, đặc biệt sau khi Bắc Kinh dỡ bỏ phong tỏa bãi cạn Scarborough vào tháng 10/2016, điều từng ngăn ngư dân Philippines đánh bắt ở bãi cạn này từ tháng 5/2012. Việc hạ nhiệt căng thẳng giữa Philippines và Trung Quốc cũng có thể đã góp phần cải thiện bầu không khí trong quan hệ ASEAN-Trung Quốc.

Trong nửa đầu năm 2017, các quan chức ASEAN và Trung Quốc đã gặp gỡ 3 lần để thảo luận COC. Tại cuộc họp Nhóm công tác chung ASEAN-Trung Quốc lần thứ 19 về thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (JWG-DOC) ở Bali, Indonesia, ngày 27/2, hai bên đã nhất trí về phác thảo cơ bản của dự thảo khung. Một phiên bản 1 trang dài hơn sau đó đã được thảo luận tại JWG-DOC lần thứ 20 ở Siem Reap, Campuchia, vào ngày 30/3/2017. Phiên bản này đã được sửa đổi chút ít trong các cuộc họp SOM-DOC ở Quý Dương vào tháng 5.

Theo đó, Dự thảo khung dài hơn 1 trang và được chia thành 3 phần: 1. Các điều khoản mở đầu; 2. Các điều khoản chung; 3. Các điều khoản cuối:

“Các điều khoản mở đầu” chỉ liệt kê 3 mục ngắn: a. Cơ sở của COC; b. Sự liên kết và tương tác giữa DOC và COC; và c. Tầm quan trọng và các nguyện vọng.

Mặc dù phần b không giải thích chi tiết mối quan hệ giữa DOC và COC, theo những người biết rõ các cuộc đàm phán, Trung Quốc coi COC là một phần của tiến trình thực hiện DOC, và theo đó DOC sẽ ảnh hưởng lớn đến nội dung của COC. Điều này cho thấy rằng COC cuối cùng có thể không quá khác DOC. Như các quan chức Trung Quốc đã nhiều lần nhấn mạnh, người ta nên hạ thấp kì vọng rằng COC sẽ khác biệt cơ bản với DOC.

“Các điều khoản chung” bao gồm 3 phần: a. Các mục tiêu; b. Các nguyên tắc; và c. Các nghĩa vụ cơ bản.

Mục tiêu đầu tiên là “Thiết lập một khuôn khổ dựa trên các quy tắc bao gồm một loạt quy chuẩn chỉ đạo cách ứng xử của các bên và thúc đẩy hợp tác hàng hải trên Biển Đông”. Điều có ý nghĩa là cụm từ “khuôn khổ dựa trên các quy tắc” được sử dụng thay vì “có tính ràng buộc về mặt pháp lý” mà một số nước ASEAN đã vạch ra từ lâu về COC. Tuy nhiên, do Trung Quốc phản đối một bộ quy tắc có tính ràng buộc về mặt pháp lý vì nó sẽ hạn chế quyền tự do hành động trên Biển Đông và vì bản thân các nước ASEAN không có sự đồng thuận về vấn đề này, cụm từ này đã bị bỏ đi. Liệu nó có được đưa vào các phiên bản sau này của COC hay không vẫn cần phải được xem xét, nhưng Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ cố gắng đảm bảo rằng điều này không xảy ra. Vì vậy, bản COC cuối cùng có khả năng sẽ mang tính tự nguyện và không ràng buộc, như DOC và Quy tắc ứng xử đối với những vụ va chạm ngoài ý muốn trên biển (CUES).

Mục tiêu thứ hai là “Thúc đẩy lòng tin lẫn nhau, sự hợp tác và uy tín, ngăn ngừa các sự cố, giải quyết các sự cố nếu chúng xảy ra, và tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc giải quyết hòa bình các tranh chấp”. Trong DOC, các bên cũng đã nhất trí xây dựng “lòng tin và uy tín” và “tăng cường các điều kiện thuận lợi cho một giải pháp hòa bình và lâu dài cho những bất đồng và tranh chấp giữa các nước có liên quan”. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên họ nhất trí ngăn ngừa và giải quyết các sự cố trên biển. Sự đề cập đến việc ngăn ngừa và giải quyết các sự cố nhấn mạnh rằng tần suất của các hoạt động gây căng thẳng đã gia tăng đáng kể từ khi DOC được ký kết vào năm 2002 – và đặc biệt sau năm 2007-2008 – và nhu cầu cấp thiết phải giải quyết tốt hơn tranh chấp và ngăn ngừa các sự cố nguy hiểm tiềm tàng xảy ra và leo thang.

Mục tiêu thứ ba là “Đảm bảo an ninh và an toàn hàng hải và quyền tự do đi lại trên biển và trên không”. Các bên tham gia DOC cũng “đã tái khẳng định sự tôn trọng và cam kết của họ đối với quyền tự do đi lại trên biển và trên không ở Biển Đông” nhưng “đảm bảo” nghe mạnh hơn một chút so với “sự tôn trọng và cam kết đối với” và nhấn mạnh mối quan ngại của một số nước ASEAN rằng tranh chấp có nguy cơ làm xói mòn quyền tự do hàng hải, đặc biệt nếu Trung Quốc tuyên bố một Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông như họ đã làm đối với các phần của biển Hoa Đông hồi tháng 11/2013. Lập trường của Trung Quốc là tranh chấp không đe dọa quyền tự do hàng hải.

Mục “Các nguyên tắc” được chia thành 4 phần. Nguyên tắc đầu tiên là COC “không phải là một công cụ để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ hay các vấn đề về phân định ranh giới trên biển”. Điều này không gây tranh cãi như nó dường như có thể có, vì các nước thành viên ASEAN chưa bao giờ ủy nhiệm cho tổ chức này giải quyết tranh chấp; điều đó chỉ có thể được thực hiện bởi chính các bên yêu sách, hoặc thông qua sự phân xử hợp pháp hoặc các cuộc thương lượng chính trị, song phương hoặc đa phương. Câu này được đưa vào dự thảo khung nhằm dẹp bỏ ý nghĩ rằng COC sẽ giúp “giải quyết” những tranh chấp về chủ quyền và quyền tài phán giữa các bên yêu sách như đôi khi vẫn bị tuyên bố sai trong các phóng sự trên các phương tiện truyền thông.

Nguyên tắc thứ hai là một cam kết đối với “các mục đích và nguyên tắc” của Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1892, Hiệp ước thân thiện và hợp tác, 5 Nguyên tắc chung sống hòa bình và “các nguyên tắc khác của luật pháp quốc tế được mọi người công nhận”. Ngôn từ này cũng xuất hiện trong DOC và đã tạo thành nền tảng của quan hệ ASEAN-Trung Quốc kể từ khi các mối quan hệ đối thoại được thiết lập vào năm 1991.

Nguyên tắc thứ ba là “Cam kết thực thi đầy đủ và hiệu quả DOC”, điều mà ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí từ trước. Cách thức thực thi đầy đủ và hiệu quả DOC không được đề cập. Các quan chức ASEAN và Trung Quốc đã thảo luận các cách thức thực thi kể từ năm 2005 mà hầu như không có tiến triển gì. Như đã lưu ý ở trên, Trung Quốc dường như xem COC như là một phần của tiến trình thực thi DOC.

Nguyên tắc thứ tư là “Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau phù hợp với luật pháp quốc tế, và nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác”. Điều khoản này là mới, mặc dù nó nhắc lại nguyên tắc 1 và nguyên tắc 3 của 5 Nguyên tắc chung sống hòa bình. Sự nhắc lại được sử dụng để củng cố tầm quan trọng của 2 nguyên tắc này trong ứng xử về các mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc, đặc biệt khi tình trạng bất cân xứng về sức mạnh giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á ngày một gia tăng kể từ khi DOC được ký kết vào năm 2002.

“Các nghĩa vụ cơ bản” bao gồm 6 phần: i. Nghĩa vụ hợp tác; ii. Thúc đẩy hợp tác hàng hải thiết thực; iii. Tự kiềm chế/Thúc đẩy lòng tin và uy tín; iv. Ngăn ngừa các sự cố, sau đó là 2 dấu chấm đầu dòng – thứ nhất là “Các biện pháp xây dựng lòng tin” và thứ hai là “Các đường dây nóng”; v. Quản lý các sự cố, sau đó là một dấu chấm đầu dòng lặp lại “Các đường dây nóng”; và vi. “Các nghĩa vụ khác phù hợp với luật pháp quốc tế để hoàn thành các mục tiêu và nguyên tắc của COC”.

“Nghĩa vụ hợp tác” là nghĩa vụ theo UNCLOS đã được tất cả các bên, ngoại trừ Campuchia, thông qua. Trong khi không được nói rõ trong văn bản này, phần ii được cho là bao gồm các hoạt động như tìm kiếm cứu nạn, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường và đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia trên biển, điều mà Trung Quốc mong muốn thúc đẩy. Các hoạt động hợp tác tại những lĩnh vực chức năng này cũng đã được đưa vào DOC.

Cụm từ “tự kiềm chế” không được định nghĩa và đây là một trong những thiếu sót lớn của DOC. Do cụm từ này không được định nghĩa, các bên tham gia khác nhau đã diễn giải nó theo cách mà họ thấy là phù hợp. Kể từ năm 2002, các bên yêu sách đã cáo buộc lẫn nhau vi phạm điều khoản tự kiềm chế trong khi chính họ lại tham gia các hoạt động mà rõ ràng là vi phạm điều khoản này – từ việc tu sửa một đường băng đang tồn tại đến, trong trường hợp của Trung Quốc, địa khai hóa 7 cấu trúc địa hình rất nhỏ thành các đảo nhân tạo lớn. Nếu DOC cần gia tăng giá trị của nó, thì “tự kiềm chế” sẽ cần phải được định nghĩa.

Gắn với điều khoản “Tự kiềm chế” là “Ngăn ngừa các sự cố”, một sự phát triển mới và được chào đón vì nó cho rằng trong tương lai, các quan chức ASEAN và Trung Quốc có thể nhất trí về một danh sách các hoạt động mà các lực lượng vũ trang của họ, và có khả năng là các lực lượng bảo vệ bờ biển của họ, bị cấm tiến hành, giống như thỏa thuận năm 1972 giữa Mỹ và Liên Xô về các sự cố trên biển mà bao gồm trong đó một danh sách dài “những điều nên và không nên làm”. DOC cũng kêu gọi các bên thiết lập các biện pháp và lập danh sách 5 lĩnh vực có thể có. Năm 2016, ASEAN và Trung Quốc nhất trí áp dụng CUES đối với Biển Đông và phê chuẩn các đường lối chỉ đạo nhằm thiết lập những đường dây nóng ngoại giao để sử dụng trong các tình trạng khẩn cấp trên biển và các cuộc khủng hoảng mà đều có thể tích hợp vào bản COC cuối cùng.

Các điều khoản cuối cùnggồm 5 dòng ngắn gọn: a. “Khuyến khích các nước khác tôn trọng các quy tắc được bao gồm trong COC”; b. “Các cơ chế cần thiết để giám sát việc thực thi”; c. “Đánh giá COC”; d. “Bản chất”; và 3. “Hiệu lực thi hành”.

Nhìn bề ngoài, phần a dường như vô hại, nhưng dường như ý định của Bắc Kinh là xác lập Biển Đông chỉ như một vấn đề giữa Trung Quốc và các bên yêu sách ở Đông Nam Á – với ASEAN đóng vai trò hạn chế trong việc quản lý xung đột – và các bên liên quan khác, đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản, không nên “can thiệp” vào cuộc tranh chấp này. Điều này phù hợp với lập trường lâu dài của Trung Quốc từng được Ngoại trưởng Vương Nghị nhắc lại tại Manila.

Các phần b và c dường như chỉ ra rằng thỏa thuận cuối cùng sẽ được giám sát bởi Hội nghị các quan chức cấp cao ASEAN-Trung Quốc về thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (SOM-DOC), được hỗ trợ bởi Nhóm công tác chung ASEAN-Trung Quốc về thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (JWG-DOC), sau đó sẽ báo cáo lên cuộc họp của các bộ trưởng ngoại giao của Trung Quốc và ASEAN, những người có thể yêu cầu đánh giá COC nếu họ cho là cần thiết.

Các phần c và d có ý nghĩa cực kỳ quan trọng ở chỗ chúng để ngỏ triển vọng rằng COC có thể mang tính ràng buộc về mặt pháp lý. COC khi đó sẽ phải được thông qua theo các tiến trình nội bộ Trung Quốc và 10 nước thành viên ASEAN. Tuy nhiên, như đã lưu ý ở trên, Trung Quốc kiên quyết phản đối một bộ quy tắc có tính ràng buộc về mặt pháp lý.

Tuy nhiên, Khung COC chưa đưa ra các điều khoản mang tính ràng buộc về pháp lý và còn thiếu sót một số vấn đề quan trọng. Theo đó, dự thảo khung này không đề cập đến phạm vi địa lý của COC, trong đó có việc liệu nó có được áp dụng cho cả 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang tranh chấp hay không hay chỉ các khu vực nhất định. Trong các cuộc đàm phán về DOC, Việt Nam đã lập luận rằng cần đưa tên gọi của 2 quần đảo này vào DOC, nhưng vì không thể đạt được sự đồng thuận nên chúng đã bị bỏ đi. Điều này có lẽ không gây ra vấn đề gì chừng nào COC được áp dụng cho toàn bộ Biển Đông. Ngoài ra, trong khi văn bản này đề cập đến “các cơ chế giám sát việc thực thi”, nó lại không nói gì đến các biện pháp thực thi và các cơ chế phân xử nếu một bên cáo buộc một bên khác vi phạm bộ quy tắc này. Nói chung, ASEAN tránh các điều khoản về việc thực thi trong các thỏa thuận của mình. Tuy nhiên, sự thiếu vắng các biện pháp thực thi và và các cơ chế phân xử sẽ làm suy yếu tính hiệu quả của bản COC cuối cùng.

Triển vọng có COC trong năm 2021

Việc ASEAN và Trung Quốc thông qu dự thảo khung COC đã tạo tiền đề cho các cuộc đàm phán trong sắp tới. Phát biểu tại Singapore trước lễ khai mạc hội nghị thượng đỉnh ASEAN, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường (13/11) cho biết Trung Quốc muốn hoàn tất Bộ quy tắc ứng xử (COC) tại Biển Đông trong vòng 3 năm nữa (năm 2021), nhằm góp phần bảo đảm hòa bình và ổn định ở Biển Đông; cho rằng COC cũng sẽ có lợi cho tự do thương mại và phục vụ lợi ích của các bên khác liên quan, đồng thời cam đoan nước này không tìm kiếm “quyền bá chủ hoặc bành trướng”.

Truyền thông quốc tế nhận định, đây là lần đầu tiên Trung Quốc đề cập đến nghị trình rõ ràng hơn nhằm tiến tới hoàn tất COC. Tuy nhiên, dù Thủ tướng Lý Khắc Cường lên tiếng cam đoan Trung Quốc không tìm kiếm quyền bá chủ hoặc bành trướng ở Biển Đông, nhưng giới phân tích cho rằng hành động của Trung Quốc thời gian qua gây tổn hại nghiêm trọng đến niềm tin của các nước trong khu vực. Trong khi đó, Cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Mỹ John Bolton (13/11) cho rằng bất kỳ thỏa thuận nào liên quan đến COC giữa Trung Quốc – ASEAN cũng không nên kèm điều khoản giới hạn quyền tiếp cận vùng biển này; đồng thời lên tiếng chỉ trích Trung Quốc đã tìm cách kéo dài đàm phán qua nhiều năm để xây dựng các tiền đồn quân sự khắp Biển Đông.

Tuy nhiên, theo giới chuyên gia nhận định, ít khả năng sẽ có COC trong 3 năm tới, chủ yếu là do lập trường giữa các nước ASEAN và Trung Quốc vẫn còn nhiều khác biệt.

Về lập trường của Việt Nam đối với COC: Việt Nam đưa ra những yêu sách cứng rắn với Trung Quốc trong cuộc đàm phán về COC. Theo bản thảo bộ quy tắc đang được đàm phán mà phóng viên Reuters có được, Việt Nam muốn đặt ngoài vòng pháp luật nhiều hành động mà Bắc Kinh đang tiến hành trên khu vực Biển Đông trong suốt nhiều năm qua, trong đó bao gồm việc xây dựng các đảo nhân tạo, triển khai các loại vũ khí phong toả biển như hệ thống tên lửa. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng thúc đẩy những điều khoản nhằm ngăn chặn Trung Quốc thiết lập Vùng nhận diện phòng không (ADIZ) trên khu vực Biển Đông, một động thái mà Bắc Kinh đã từng đơn phương thực hiện trên khu vực biển Đông Trung Hoa vào năm 2013. Cũng theo Reuters, Việt Nam yêu cầu các nước tham gia đàm phán minh định yêu sách của họ về chủ quyền trên biển, tuân thủ luật pháp quốc tế. Động thái này nhiều khả năng nhắm vào “đường lưỡi bò” của Trung Quốc, vốn bao trùm phần lớn diện tích Biển Đông. Trước đó, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng cho biết đàm phán về COC đã đạt được một số bước tiến trong thời gian gần đây. Việt Nam vẫn đang tích cực cùng các nước khác thể hiện “tinh thần xây dựng và hợp tác”; khẳng định Việt Nam mong muốn các nước liên quan sẽ tiếp tục các nỗ lực của mình, đóng góp tích cực cho quá trình đàm phám nhằm đạt được một COC phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật biển của Liên Hiệp Quốc năm 1982, góp phần duy trì hoà bình, ổn định, và an ninh trên Biển Đông nói riêng, và trong khu vực nói chung.

Về những yêu sách của phía Trung Quốc, tài liệu mà Reuters có được còn xác nhận những thông tin được đưa ra trước đây rằng Trung Quốc muốn ngăn chặn những cuộc tập trận chung giữa các quốc gia trong khu vực với các cường quốc bên ngoài, “cấm cửa” các tập đoàn dầu khí bên ngoài Trung Quốc và Đông Nam Á, tham gia khai thác tài nguyên trong khu vực biển Đông, trừ khi có sự đồng ý của tất cả các nước tham gia vào COC. Đây là những yêu sách mà các chuyên gia cho rằng một số thành viên của ASEAN sẽ phản đối kịch liệt.

Quan điểm của Philippines: Cựu Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario đã đề xuất một cuộc tham vấn chung giữa Philippines và Việt Nam xung quanh những điều khoản chính của bản dự thảo COC, để dẫn đến một kế hoạch hành động thống nhất có lợi cho cả hai nước lẫn các nước khác trong khu vực. Ông Albert del Rosario cho rằng, quan điểm và đề xuất nói trên của Việt Nam về COC cần được ủng hộ toàn diện, không chỉ từ Philippines, mà phải cả khối ASEAN. Nếu đạt được sự đồng thuận này, ASEAN sẽ cho thế giới thấy tổ chức này sẵn sàng bảo vệ vai trò trung tâm của mình, không để bị bắt nạt hay mua chuộc. Đồng thời nhấn mạnh, Philipines sẽ cần phải hết sức cảnh giác để đảm bảo rằng, Bắc Kinh không thể lợi dụng COC vào mục đích bảo vệ những gì bất hợp pháp mà Phán quyết Tòa trọng tài đã bác bỏ, hiện là một phần không thể thiếu của luật pháp quốc tế, đồng thời cảnh báo Trung Quốc có thể lợi dụng COC để hợp pháp hóa hành động bất hợp pháp – bồi đắp đảo nhân tạo và quân sự hóa một số cấu trúc địa lý nước này chiếm đóng trái phép ở Biển Đông.

Trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana phát biểu trên kênh tin tức ABS-CBN phát sóng đêm Giáng sinh, rằng tiếng nói thống nhất của các nước Đông Nam Á có yêu sách ở Biển Đông sẽ đủ mạnh để khiến Trung Quốc lắng nghe. Vấn đề đặt ra đối với ASEAN hiện nay theo ông Delfin Lorenzana, là sự thiếu kiên quyết trong tuyên bố chống lại các yêu sách của Trung Quốc, đặc biệt là yêu sách “chủ quyền lịch sử” trái ngược hoàn toàn với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS.

Chen Xiangmao, một nhà nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Biển Đông mà Trung Quốc lập ra, có trụ sở tại đảo Hải Nam, nói rằng các cuộc đàm phán về COC trong năm 2019 sẽ tập trung vào các vấn đề cơ bản như phạm vi địa lý áp dụng COC cũng như việc bộ quy tắc này có tính ràng buộc chính trị hay pháp lý. Liu Feng, một học giả khác ở Hải Nam, Trung Quốc, tin rằng Bắc Kinh sẽ tìm mọi cách ngăn cản sự tham dự của các quốc gia “ngoài khu vực Biển Đông” vào tiến trình đàm phán COC, đặc biệt là Mỹ.

Giáo sư Carlyle A.Thayer (Học viện Quốc phòng Australia) cho rằng Trung Quốc sẽ tận dụng cuộc đàm phán COC với các nước thành viên ASEAN để thúc đẩy phát triển chung ở Biển Đông với Việt Nam và Malaysia sau khi đạt thỏa thuận với Brunei và Philippines. Trong khi đó, về việc Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường muốn hoàn tất đàm phán về COC trong vòng 3 năm, ông Thayer nhận định đưa ra thời hạn này cho thấy Trung Quốc không vội vã hoàn tất đàm phán về COC. Tương tự, chuyên gia Gregory Poling, Giám đốc Chương trình Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS, Mỹ), đánh giá việc đưa ra thời hạn 3 năm là cách Trung Quốc trì hoãn để có thể tiếp tục quân sự hóa ở Biển Đông. Ông cho rằng nếu trong 3 năm mà cảm thấy chưa kiểm soát được Biển Đông, Trung Quốc sẽ đưa ra thời hạn 3 năm khác.

Tiến sĩ Koh Swee Lean Collin, chuyên gia về an ninh quốc tế tại Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam (Singapore), dự đoán đàm phán về COC sẽ tiếp tục diễn ra trong năm 2019, nhưng một số bên vẫn thực hiện những điều họ làm lâu nay như quân sự hóa hoặc phô diễn sức mạnh quân sự. Không nhiều khả năng sẽ có một thỏa thuận có thể buộc bất kỳ bên nào kiềm chế hoạt động như thế trong lúc đàm phán về COC diễn ra. Tuy nhiên, những nước lớn như Mỹ và Trung Quốc có thể sẽ kiềm chế để tránh đẩy căng thẳng vượt tầm kiểm soát

Nhìn chung, trong bối cảnh tình hình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đang ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là Trung Quốc liên tục có các hành vi vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước liên quan ở Biển Đông khiến việc tìm ra một giải pháp hữu hiệu, mang tính ràng buộc pháp lý còn gặp nhiều bế tắc. Việc ASEAN và Trung Quốc thông qua Khung COC và nỗ lực đàm phán COC là tín hiệu khả quan, tích cực nhằm góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực. Tuy nhiên, quá trình đàm phán để có COC trong 3 năm tới là tương đối khó khăn.

RELATED ARTICLES

Tin mới