Friday, April 26, 2024
Trang chủNhìn ra thế giớiThực trạng hoạt động quân sự của Việt Nam và sự tác...

Thực trạng hoạt động quân sự của Việt Nam và sự tác động đến an ninh Biển Đông nhìn từ khía cạnh luật quốc tế

Khác với Trung Quốc và một số nước trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ pháp lý và lịch sử khẳng định chủ quyền ở Biển Đông. Vì vậy, các hoạt động quân sự của Việt Nam trên Biển Đông phù hợp với các quy định luật pháp quốc tế và chỉ mang tính chất phòng ngự nhằm bảo an an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải.

Chính sách hoạt động quân sự của Việt Nam trên Biển Đông

Việt Nam tăng cường hiện diện quân sự ở Biển Đông là dựa trên cơ sở các quy định của luật quốc tế và luật pháp của Việt Nam. Cụ thể: Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, các nguyên tắc của luật biển quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, UNCLOS, Quy tắc quốc tế phòng ngừa đâm va tàu thuyền trên biển năm 1972 (COLREGS 72) được sửa đổi bổ sung vào các năm 1981, 1987, 1989, 1993, 2001 và Bộ quy tắc về Tránh va chạm bất ngờ trên biển (CUES) 2014. Ngoài ra, các cam kết chính trị cũng có tác động không nhỏ đến chính sách quốc phòng Việt Nam bao gồm: Tuyên bố về ứng xử ở Biển Đông (DOC), Nguyên tắc sáu điểm của ASEAN về Biển Đông năm 2012, Bộ Ứng xử chín điểm trong Tuyên bố chung của tham khảo song phương của Việt Nam và Philippines tháng 10/1995, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày 11/10/2011.

Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật Việt Nam có liên quan đến các hoạt động quân sự bao gồm: Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013; Luật Biên giới quốc gia 2003; Pháp lệnh Bộ đội biên phòng năm 1997; Bộ Luật Hàng hải năm 2005; Luật Quốc phòng 2005; Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2011; Luật Biển Việt Nam năm 2012; Nghị định số 02/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng 1997, Nghị định số 140/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Biên giới quốc gia năm 2003, Nghị định số 89/2009/NĐ-CP về hoạt động đối ngoại biên phòng, Nghị quyết của Quốc hội ngày 23/06/1994 về phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Nghị định số 104/2012/NĐ-CP quy định đối với tàu quân sự nước ngoài đến nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam; Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 12/5/1977; Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam ngày 12/11/1982 và Sách trắng quốc phòng Việt Nam 2009. Không kém phần quan trọng là các văn bản từ Đảng Cộng sản Việt Nam như: Nghị quyết 09 – NQ/ TW ngày 09/02/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”.

Hoạt động quân sự của Việt Nam ở Biển Đông có một số đặc điểm chính:

Thứ nhất, tính chất của hoạt động quân sự của Việt Nam chỉ mang tính tự vệ, phòng thủ. Đây là một trong những tính chất quan trọng của chính sách quân sự của một quốc gia. Việt Nam phát triển quân đội nhằm mục đích tự vệ phòng thủ chứ không phải để phát động chiến tranh. Điều này được cụ thể hóa bằng rất nhiều chủ trương chính sách và điều khoản pháp luật. Sách trắng quốc phòng Việt Nam năm 2009 có ghi nhận: “Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng mang tính chất hoà bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hoà bình”.

Việt Nam chủ trương từng bước hiện đại hoá quân đội và phát huy tiềm lực quốc phòng với mục đích duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ. Đồng thời, Việt Nam phản đối những hoạt động chạy đua vũ trang. Là một dân tộc đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc nên Việt Nam triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của các quốc gia khác trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Ngoài ra Việt Nam cũng đòi hỏi các quốc gia khác phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của mình. Việt Nam chủ trương không đe doạ hoặc sử dụng sức mạnh quân sự trước trong quan hệ quốc tế nhưng sẵn sàng và kiên quyết giáng trả mọi hành động xâm lược.

Tích cực và chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi những nguy cơ gây chiến tranh là một trong các nhiệm vụ trọng yếu của quốc phòng Việt Nam trong thời bình với mục tiêu thực hiện chiến lược quốc phòng tối ưu là bảo vệ chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia khác mà không phải tiến hành chiến tranh. Việt Nam chủ trương thực hiện chiến lược quốc phòng dựa trên tổng thể các hoạt động chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hoá – xã hội và quân sự nhằm loại trừ các nguyên nhân dẫn đến xung đột vũ trang và chiến tranh.

Đối với lực lượng Bộ đội Biên phòng Việt Nam, Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng tại các Điều 1, Điều 5 đến Điều 17 cũng quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng bộ đội biên phòng, trong đó, yếu tố “xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh; sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu chống gây xung đột vũ trang và chiến tranh xâm lược” (Điều 8) được tập trung làm rõ. Tính chất phòng thủ này được quy định cụ thể hơn tại Nghị định số 140/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Biên giới quốc gia tại các Điều 15, Điều 16, Điều 17.

Đối với lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2009 cũng ghi nhận Quân chủng Hải quân là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên biển. Trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn, lực lượng Hải quân Việt Nam quản lý và kiểm soát chặt chẽ các vùng biển, hải đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông; giữ gìn an ninh, chống lại mọi hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của Việt Nam trên biển; bảo vệ các hoạt động bình thường của Việt Nam trên các vùng biển đảo, theo quy định của luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam; bảo đảm an toàn hàng hải và tham gia tìm kiếm cứu nạn theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, sẵn sàng hiệp đồng chiến đấu với các lực lượng khác nhằm đánh bại mọi cuộc tiến công xâm lược trên hướng biển. Điều đó thể hiện lực lượng này tính chất phòng thủ không mang tính chất phát động chiến tranh.

Thứ hai, chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Biển Đông hiện nay tồn tại nhiều dạng tranh chấp. Chủ trương nhất quán của Việt Nam là giải quyết các tranh chấp đó bằng biện pháp hòa bình. Tinh thần này cũng được thể hiện ở nhiều chính sách và điều khoản pháp luật Việt Nam.

Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên đất liền, trên biển do lịch sử để lại hoặc mới nảy sinh bằng các biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế là chủ trương nhất quán của Việt Nam. Đối với các tranh chấp chủ quyền trên biển, mặc dù có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi đối với các vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam vẫn sẵn sàng đàm phán hoà bình để giải quyết các tranh chấp dựa trên các quy định của UNCLOS. Trong khi tiếp tục tìm kiếm giải pháp lâu dài cho vấn đề này, Việt Nam chủ trương các bên phải tự kiềm chế, nghiêm chỉnh thực hiện DOC, hướng tới xây dựng COC, tiến tới đạt được giải pháp công bằng, lâu dài cho vấn đề phức tạp này để Biển Đông luôn luôn là vùng biển hoà bình, hữu nghị và phát triển.

Chủ trương này còn nằm trong một số điều luật như: Điều 7 Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 12/5/1977: nhấn mạnh cơ chế “thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế”; Điều 18 Nghị định số 140/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Biên giới quốc gia cũng chỉ rõ phương thức giải quyết các vấn đề về biên giới là thông qua đàm phán. Các Điều 3, Điều 7 Nghị định số 89/2009/NĐ-CP về hoạt động đối ngoại biên phòng quy định cụ thể hình thức hội đàm giải quyết các vấn đề biên giới.

Đáng chú ý tại Điều 4 Nghị quyết của Quốc hội ngày 23/6/1994 về phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Quốc hội khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS, tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.

Đặc biệt đối với các lực lượng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần quán triệt và nắm chắc quan điểm đối ngoại quân sự của Đảng trong tình hình mới theo tinh thần chỉ đạo kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích, kiềm chế, không để nước ngoài lấn chiếm và không để xảy ra xung đột, đụng độ; tránh xung đột về quân sự, tránh bị cô lập về kinh tế, tránh bị cô lập về ngoại giao, tránh bị lệ thuộc về chính trị; không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam, không sử dụng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực.

Thứ ba, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội với đảm bảo quốc phòng – an ninh, hợp tác quốc tế. Điều 11 Nghị định số 140/2004/NĐ-CP116 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Biên giới quốc gia thể hiện sự gắn kết giữa phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2009 có ghi nhận: “Việt Nam luôn coi việc giữ vững môi trường hoà bình, n đ nh để phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế th trường theo đ nh hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của đất nước, là mục tiêu xuyên suốt của chính sách quốc phòng Việt Nam”.

Thực hiện chính sách quốc phòng độc lập, tự chủ, Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng bằng tất cả nguồn lực của đất nước và con người Việt Nam. Chính vì lẽ đó, Việt Nam chủ trương không tham gia bất kỳ tổ chức liên minh quân sự nào, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước khác.

Về mặt hợp tác quốc tế, Sách trắng thể hiện Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các nước ASEAN trong khuôn khổ chương trình xây dựng Cộng đồng Chính trị – An ninh ASEAN và phù hợp quan hệ song phương với từng nước theo hướng mở rộng chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, tăng cường hợp tác đào tạo, huấn luyện, phối hợp xử lý các vấn đề an ninh mà các bên cùng quan tâm; chú trọng mở rộng đối thoại quốc phòng với các nước có liên quan, giúp cho các bên hiểu rõ quan điểm của nhau, tạo ra cơ hội giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của các bên. Việt Nam đã tiến hành đối thoại quốc phòng – an ninh thường xuyên ở nhiều cấp độ với các quốc gia trong khối ASEAN, Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Ấn Độ, … Cùng với việc tăng cường trao đổi các đoàn quân sự cấp cao, giao lưu giữa các sĩ quan, hợp tác giữa các nhà trường, các viện nghiên cứu của Bộ Quốc phòng Việt Nam với các nước cũng được coi trọng.

Bên cạnh đó là các điều luật trong pháp luật Việt Nam như: Điều 10 Luật Biên giới quốc gia năm 2003 ghi nhận: “Nhà nước và nhân dân thực hiện kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại.”. Luật Biển Việt Nam năm 2012 tại các Điều 5, Điều 6, Điều 42, Điều 43, Điều 44, Điều 45 và Điều 46 cũng lần lượt quy định rõ hơn tính chất này.

Có thể nhận ra rằng, về cơ bản thì chính sách quân sự của Việt Nam đã phù hợp với luật pháp quốc tế và các cam kết chính trị mà Việt Nam ký kết. Tuy nhiên, vẫn tồn tại vài điểm trong pháp luật Việt Nam chưa phù hợp với luật pháp quốc tế và các cam kết chính trị, điều này làm cho việc thực thi chính sách hoạt động quân sự của Việt Nam có thể sẽ gặp không ít trở ngại.

Tuyên bố 1982 về lãnh hải thì bị nhận định là chưa phù hợp với UNCLOS. Đây là một trong những vấn đề ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định các vùng biển thuộc quyền tài phán của Việt Nam, từ đó, có tác động lớn đến phạm vi hoạt động của lực lượng quân đội Việt Nam cũng như hiệu lực về không gian của pháp luật Việt Nam.

Ngoài ra, khoản 2 Điều 12 Luật Biển Việt Nam năm 2012 yêu cầu tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam phải thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Điều này không phù hợp với quyền đi qua không gây hại quy định tại các Điều 17, Điều 19 UNCLOS. Cũng về quyền đi qua không gây hại, điểm b khoản 3 Điều 23 Luật Biển Việt Nam quy định hành vi đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác là hành vi đi qua có hại, trong khi tại khoản 2 Điều 19 UNCLOS chỉ quy định quốc gia có độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ bị đe dọa chỉ là quốc gia ven biển.

Thực trạng hoạt động quân sự của Việt Nam và tác động đến an ninh Biển Đông

Là một quốc gia khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ các thực thể địa lý ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam đương nhiên có tiến hành hoạt động quân sự trên Biển Đông. Các lực lượng vũ trang trên biển của Việt Nam bao gồm: hải quân, phòng không không quân, biên phòng, cảnh sát biển, kiểm ngư và dân quân tự vệ biển. Trong đó, lực lượng quân đội bao gồm: hải quân, phòng không không quân, biên phòng. Còn ba lực lượng cảnh sát biển, kiểm ngư và dân quân tự vệ biển mang tính chất dân sự và hoạt động của ba lực lượng này không được xem là hoạt động quân sự. Do đó, trong phần này, nhóm tác giả chỉ xét đến hoạt động của ba lực lượng hải quân, phòng không không quân và biên phòng.

Thứ nhất, hoạt động chiếm giữ và xây dựng các thực thể địa lý ở Biển Đông. Chiếm giữ và xây dựng các thực thể địa lý ở Biển Đông là một trong những minh chứng mạnh mẽ nhất của việc khẳng định chủ quyền đối với các thực thể địa lý đó. Sự phù hợp của hoạt động quân sự này với luật pháp quốc tế phụ thuộc vào danh nghĩa pháp lý của quốc gia đang thực hiện việc chiếm giữ đối với lãnh thổ bị chiếm giữ. Nói cách khác, nếu quốc gia thực hiện việc chiếm giữ các vùng lãnh thổ là quốc gia có chủ quyền đối với vùng lãnh thổ đó thì đây là một việc làm hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế. Từ đó, vấn đề chủ quyền đối với các thực thể địa lý ở Biển Đông là một trong những khía cạnh pháp lý trọng yếu để đánh giá mức độ hợp pháp của các hoạt động quân sự đang diễn ra trên Biển Đông.

Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Để minh chứng cho chủ quyền không thể tranh cãi này, Việt Nam đã viện dẫn nguyên tắc chiếm hữu thực sự là phương thức thụ đắc lãnh thổ đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo đó, việc chiếm giữ các thực thể địa lý ở Biển Đông đã có lịch sử ít nhất từ thế kỷ XVII, do các đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải thực hiện. Trải qua nhiều biến động lịch sử, tuy rằng thể chế nhà nước đã có sự thay đổi dẫn đến lực lượng thực hiện việc chiếm giữ cũng thay đổi nhưng danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo là không bị thay đổi. Bên cạnh đó, lịch sử cũng cho thấy rằng, quân đội Việt Nam khi đưa quân đội ra các đảo thì không hề xảy ra cuộc đối đầu với quân đội nước ngoài. Do đó, việc chiếm giữ và xây dựng của quân đội Việt Nam đối với các thực thể địa lý ở Biển Đông là hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế.

Tuy khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng trên thực tế quân đội Việt Nam không thực hiện việc chiếm giữ trên toàn bộ các đảo trong hai quần đảo này. Về số lượng các thực thể địa lý ở Biển Đông mà quân đội Việt Nam đang chiếm giữ cũng có nhiều sự khác biệt trong những nguồn tài liệu khác nhau. Theo tài liệu chính thức từ phía Việt Nam thì nước này đang có quân đội hiện diện trên 21 thực thể địa lý. Cụ thể, chín thực thể luôn nổi trên mặt nước bao gồm: Trường Sa Lớn, Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn Đông, Phan Vinh, An Bang, Trường Sa Đông và 12 bãi cạn bao gồm: Đá Nam, Đá Thị, Đá Lớn, Đá Lát, Đá Đông, Đá Tây, Cô Lin, Len Đao, Tốc Tan, Núi Le, Tiên Nữ, Thuyền Chài.

Bên cạnh việc chiếm giữ các thực thể địa lý thì việc xây dựng các thực thể địa lý đó hay các công trình nhân tạo trên Biển Đông cũng là một hoạt động cần được chú ý. Ở các thực thể địa lý mà Việt Nam đang chiếm giữ, nước này cũng đã xây dựng một công trình phục vụ đời sống của quân đội và dân cư. Đặc biệt là ở 12 bãi cạn, Việt Nam đã xây dựng công trình duy trì sự túc trực thường xuyên của quân đội. Theo Bộ Quốc phòng Mỹ, trong giai đoạn 2009-2015, Việt Nam đã lắp đặt radar và vệ tinh viễn thông ở 15 vị trí, cải thiện chất lượng sống ở 19 vị trí, cải thiện quốc phòng ở 18 vị trí; trong giai đoạn 2011-2015, Việt Nam đã xây dựng sân bay trực thăng ở sáu vị trí.

Thêm vào đó, căn cứ theo Điều 60 UNCLOS thì trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có quyền xây dựng, khai thác và sử dụng các công trình nhân tạo vào mục đích phù hợp với Điều 56 UNCLOS hoặc các mục đích kinh tế khác.

Hiện tại, Việt Nam đã xây dựng được 15 nhà giàn DK1 trên các bãi cạn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam như: Tư Chính (ba lô), Phúc Nguyên (một lô), Phúc Tần (bốn lô), Quế Đường (hai lô), Huyền Trân (một lô), Ba Kè (ba lô) và DK1/10 (bãi cạn Cà Mau). Tuy rằng việc xây dựng các nhà giàn này là do quân đội đảm nhận và trên thực tế thì sống trong các nhà giàn đó cũng là quân nhân nhưng Việt Nam đang sử dụng các nhà giàn này vào mục đích kinh tế, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường biển, thăm dò khai thác tài nguyên dầu khí và hỗ trợ ngư dân, …

Đáng chú ý, quan điểm của Việt Nam là không cố ý biến các bãi cạn này thành đảo nổi và cố tình gán ghép chúng trở thành một bộ phận của quần đảo Trường Sa. Việt Nam cho rằng mọi hành vi cố ý và gán ghép đó là hoàn toàn sai trái trong việc giải thích và áp dụng UNCLOS cần phải lên án, bác bỏ. Từ đó, xét về danh nghĩa pháp lý của việc xây dựng các nhà giàn thì Việt Nam đang thực hiện quyền chủ quyền trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, còn xét về mục đích thì các nhà giàn đó được sử dụng hòa bình, không mang tính tấn công, tác chiến. Do vậy, việc xây dựng này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế.

Thứ hai, hiện đại hóa quân đội. Theo thông tin từ CNA (lấy nguồn từ IHS Jane’s Defense Budgets), Hải quân Việt Nam đã bổ sung thêm 43.000 quân, trong đó có 27 000 là hải quân đánh bộ được tổ chức thành hai lữ đoàn. Ngân sách mua sắm cho hải quân hằng năm tăng đến 150% kể từ năm 2008 đến mức 276 triệu USD trong năm 2011 và dự kiến tăng đến 400 triệu USD trong năm 2015. Căn cứ theo số liệu từ Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) thì chi phí quốc phòng của Việt Nam có xu hướng tăng mạnh. Từ năm 2008 đến năm 2014 chi phí dành cho quốc phòng tăng đến 258,26%. Việc chi nhiều tiền hơn cho quốc phòng là nhằm mua sắm vũ khí, góp phần hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là hải quân và phòng không không quân. Cũng theo số liệu từ Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) thì Việt Nam là quốc gia đứng thứ tám trong giai đoạn từ năm 2011-2015 về nhập khẩu vũ khí, chiếm 29% trên trên toàn thế giới. Cụ thể, theo như bảng dữ liệu khảo sát cũng của Viện Nghiên cứu này, trong khoảng năm 2008 đến 2015, Việt Nam đã nhập khẩu vũ khí từ các quốc gia như: Hà Lan, Nga, Canada, Cộng hòa Séc, Pháp, Israel, Ý, Romania, Slovakia, Tây Ban Nha, Ukraine. Các loại vũ khí mà Việt Nam đã nhập bao gồm các loại tên lửa, hệ thống phòng không, phi cơ, bộ cảm biến, tàu chiến, tàu ngầm, …

Hải quân Việt Nam đã củng cố nên quốc phòng tự lực và đã nâng cao năng lực trong những năm gần đây. Việt Nam cũng đã ký hợp đồng một số lượng vũ khí với Ba Lan trong năm 2005 cho 10 máy bay tuần tra biển M-28 và khoảng 40 máy bay Su-22M, một vài trong số chúng có vai trò tấn công trên biển. Thêm vào đó, Việt Nam đang đóng mới 40 tàu bản địa 400 tấn tuần tra ngoài khơi và sáu tàu tuần tra bờ biển 150 tấn. Không quân Việt Nam cũng tăng cường mua máy bay đã qua sử dụng được tân trang lại Su-22s (từ Cộng hòa Séc và Ba Lan) và L-39s (từ Cộng hòa Séc và Ukraine) nhằm nâng cao sức mạnh không quân.

Do nỗ lực hiện đại hóa quân sự của mình, chi tiêu hải quân của Việt Nam đã tăng lên từ 1,9% GDP năm 2005 đến 2,5% năm 2009. Bước phát triển lớn nhất là quyết định tháng 12/2009 khi Việt Nam mua sáu tàu ngầm lớp Kilo từ Nga. Ngoài ra, Việt Nam cũng đặt hai tàu khu trục nhỏ lớp Gepard vào năm 2006, đã được giao vào năm 2011 và 37 máy bay chiến đấu trong thời gian từ năm 2004 đến năm 2010, bao gồm 24 chiếc Su-30MKs tiên tiến. Nhìn chung, những sự hiện đại hóa này chỉ ra rằng Việt Nam đáng phát triển các biện pháp để ngăn chặn Trung Quốc khỏi sử dụng các lực lượng hải quân ở các tranh chấp ở Biển Đông.

Trước sức ép bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với các đảo đá ở Biển Đông, việc hiện đại hóa quân đội của Việt Nam cũng là một xu hướng tất yếu. Luật pháp quốc tế không ràng buộc quốc gia trong việc nâng cao khả năng phòng thủ của quân đội.

Thứ ba, một số hoạt động quân sự có quy mô sâu rộng từ năm 2008 đến nay. Vào năm 2014 và 2016, hải quân Việt Nam tham gia Diễn tập Hải quân đa phương Komodo do Hải quân Indonesia tổ chức. Với chính sách hoạt động quân sự đã được phân tích phía trên, rất ít hoạt động quân sự mang tính cứng rắn được ghi nhận. Hiện nay đa số ở các thực thể địa lý mà Việt Nam đang chiếm giữ đều có quân đội đồn trú. Do đó, hoạt động quân sự chủ yếu là hậu cần quân đội như: quân nhu, quân lương và quân trang. So với các nguyên tắc và quy định mà Việt Nam chịu sự ràng buộc, hoạt động quân sự của Việt Nam là phù hợp.

Từ những vấn đề trên cho thấy: (1) Hoạt động quân sự của Việt Nam ở Biển Đông có xu hướng phòng thủ. Tuy chi phí quốc phòng có tăng nhưng vẫn giữ mức hài hòa ổn định cùng với sự gia tăng của chỉ số GDP. Xu hướng hiện đại hóa quân sự cũng là để ứng phó với những căng thẳng Biển Đông do một số nước trong và ngoài khu vực gây ra. Do đó, đây là hoạt động quốc phòng bình thường của một quốc gia, không có dấu hiệu của sự đẩy mạnh tăng cường sức mạnh quân sự cũng như không có bất cứ hoạt động nào vượt ngoài thẩm quyền của quốc gia ven biển đối với các vùng biển thuộc quyền tài phán của mình đồng thời chưa có ghi nhận về hoạt động quân sự nào mang tính khiêu khích, đe dọa hòa bình và an ninh Biển Đông. (2) Việt Nam không liên minh quân sự với bất kỳ nước nào. Như đã đề cập, chủ trương của Việt Nam là thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa. Điều này được thể hiện thông qua việc Việt Nam không liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống lại nước khác. Từ thực tế cho thấy, Việt Nam khá độc lập trong các hoạt động quân sự. Cho đến nay, Việt Nam chưa ký kết bất kỳ một hiệp định nào nhằm liên minh quân sự với nước ngoài. (3) Việt Nam đã chủ động hợp tác quân sự. Việc hợp tác quân sự ngày càng được xúc tiến mạnh mẽ và là một biểu hiện nổi bật cho thái độ thân thiện và hợp tác của Việt Nam dù là quốc gia chịu tác động trực tiếp và sâu sắc từ tranh chấp ở Biển Đông và hoạt động quân sự của các nước khác trong khu vực.

Về tác động đối với môi trường biển, hoạt động quân sự của Việt Nam gây ảnh hưởng không tốt đến môi trường biển. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng không quá sâu rộng và đặc biệt là phạm vi ảnh hưởng không lan rộng đến quốc gia khác. Ở khía cạnh hoạt động khai thác của con người, hoạt động quân sự của Việt Nam góp phần gìn giữ môi trường hòa bình và an ninh để ngư dân Việt Nam và các nước được khai thác nguồn lợi từ biển một cách bình thường và đúng với pháp luật.

RELATED ARTICLES

Tin mới