Saturday, November 23, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaMột số nét về quan hệ Trung - Mỹ dưới thời Tổng...

Một số nét về quan hệ Trung – Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump

Từ khi Tổng thống Mỹ Donald Trump lên nắm quyền, quan hệ Mỹ – Trung đã có nhiều thay đổi lớn so với thời cựu Tổng thống Barack Obama.

Một số yếu tố tác động quan hệ Mỹ – Trung

Tình hình quốc tế: Sự nổi lên của Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS, cuộc chiến ác liệt ở Syria, Anh quốc tách khỏi EU, tranh chấp Biển Đông leo thang căng thẳng, tiến triển trong việc giải quyết chương trình hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa biệt lập có xu hướng gia tăng, cạnh tranh thương mại Mỹ – Trung đang có nhiều biễn biến phức tạp… đã tác động không nhỏ đến quan hệ hai nước

Tình hình trong nước Mỹ và Trung Quốc đang có những diễn biến khó lường, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn. Kinh tế Mỹ tăng trưởng chậm, không ổn định và những vụ khủng bố khiến dân chúng bất mãn. Từ khi Tổng thống Donald Trump lên cầm quyền, mâu thuẫn và bất đồng giữa Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa đã gây nên chia rẽ sâu sắ́c trong nội bộ nước Mỹ, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn. Trong khi đó, nền kinh tế Trung Quốc đang phát triển chậm lại, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và nạn tham nhũng tràn lan gây ra bất mãn trong dân chúng. Nguồn vốn không ngừng tháo chạy ra nước ngoài và đồng Nhân dân tệ mất giá khiến giới kinh doanh bi quan. Chiến dịch chống tham nhũng “Đả hổ diệt ruồi” vẫn đang gây chia rẽ và gặp nhiều khó khăn.

Trong những năm gần đây, quan hệ Mỹ-Trung luôn là tâm điểm của thế giới. Các nghiên cứu chỉ ra rằng “chính sách xoay trục” sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ từ cuối năm 2011 là nhằm kiềm chế Trung Quốc, từ đó duy trì vị thế dẫn dắ́t của Mỹ tại khu vực này. Để trợ giúp cho chiến lược xoay trục, Mỹ tăng cường can dự vào tranh chấp biển đảo tại Biển Đông và Biển Hoa Đông, bố trí hệ thống phòng thủ tại Hàn Quốc, áp đặt các biện pháp thuế quan mới đối với Trung Quốc… Đáp lại chiến lược của Mỹ, sau khi lên nắ́m quyền vào năm 2012, Tập Cận Bình đã từ bỏ chiến lược “giấu mình chờ thời” của Đặng Tiểu Bình, đề xướng “Giấc mơ Trung Hoa” để đưa Trung Quốc trở thành cường quốc toàn cầu. Với những bước đi quyết đoán được hậu thuẫn bởi nguồn lực kinh tế dồi dào, tận dụng bối cảnh quốc tế có lợi và sự sa lầy của Mỹ, Trung Quốc đã gia tăng đáng kể quyền lực trên phạm vi toàn cầu bằng cách tăng cường vai trò trong một số định chế quốc tế (Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Hội nghị Thượng đỉnh nhóm các nền kinh tế lớn G20) thậm chí là dẫn dắ́t (Khối những nền kinh tế mới nổi BRICS hay Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á-AIIB), bên cạnh đó là những dự án đầu tư, tài trợ trên phạm vi toàn cầu với số vốn rất lớn. B. R. Deepak (2014) nhận định “Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), Quỹ con đường Tơ lụa (MSR) và Khu vực thương mại tự do châu Á-Thái Bình Dương (FTAAP) đã đặt Trung Quốc vào vị trí trung tâm địa chính trị-kinh tế toàn cầu và điều này đã buộc Mỹ phải tranh giành vai trò lãnh đạo ít nhất là trong khu vực, thậm chí là toàn cầu.”

Trong khi đó, dù vẫn đóng vai trò dẫn dắ́t thế giới, nhưng quyền lực của Mỹ đã bị giảm sút do trì trệ kinh tế và sự thiếu quyết đoán cùng tham vọng quá sức của Chính quyền Obama. Sức mạnh Mỹ bị phân tán cùng lúc cho nhiều mặt trận để giải quyết các vấn đề và chống chọi với các thế lực chống đối trên phạm vi toàn cầu, từ đó tạo nên bối cảnh quốc tế bất lợi cho Mỹ. Trong nước thì chính quyền của Tổng thống Obama để mất niềm tin của người dân dẫn đến việc Đảng Dân chủ đánh mất quyền kiểm soát lưỡng viện quốc hội vào tay Đảng Cộng hòa, vì vậy chính sách xoay trục của Mỹ chưa đạt được kết quả như mong muốn.

Quan hệ Mỹ-Trung trong giai đoạn này luôn trong trạng thái giằng co, đan xen hợp tác và đấu tranh với lợi ích nghiêng về Trung Quốc. Tuy nhiên, kể từ khi Tổng thống Donald Trump lên nắm quyền đã phá vỡ trạng thái này, khiến quan hệ giữa hai nước trở nên căng thẳng và khó dự đoán. Mỹ đã áp dụng tư tưởng của Chủ nghĩa Trọng thương để bảo hộ sản xuất trong nước, những rào cản thuế đối với hàng hóa Trung Quốc sẽ được dựng lên; tiếp tục thực hiện chính sách kiềm chế Trung Quốc, cứng rắ́n và quyết liệt hơn nhằm ngăn chặn những hành động gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông và Biển Hoa Đông; đặc biệt là Mỹ có những điều chỉnh trong quan hệ với Đài Loan mà đỉnh điểm là từ bỏ chính sách “Một Trung Quốc”; tăng cường hơn các hoạt động quân sự tại các nơi gần Trung Quốc như Nhật Bản và Hàn Quốc. Ngoài ra, Mỹ tiến hành trừng phạt Trung Quốc về an ninh mạng và sở hữu trí tuệ.

Nguyên nhân quan hệ Mỹ – Trung căng thẳng

Hệ thống quốc tế: Bước sang thế kỷ 21, cả thế giới đã chứng kiến sự tăng tốc của toàn cầu hóa. Sự tăng tốc này một mặt làm gia tăng nhanh chóng nhu cầu hội nhập và tương tác, mặt khác lại làm nảy sinh và sâu sắ́c thêm các mẫu thuẫn giữa các chủ thể trên phạm vi rộng hơn. Tuy nhiên các chủ thể trong hệ thống quốc tế, bên cạnh quốc gia còn có các chủ thể phi quốc gia (Non-state Actor) như tổ chức quốc tế, công ty xuyên quốc gia, từ đó tạo nên sự đan xen lợi ích giữa nhiều chủ thể khác nhau khiến cho các chủ thể không thể chỉ làm theo ý mình hoặc chỉ nghĩ đến xung đột mà phải điều chỉnh bản thân cho phù hợp hoặc phải hợp tác với nhau. Từ đó, vai trò của các thể chế toàn cầu như (Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới) hay khu vực (Liên minh châu Âu, Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á) được tăng cường để bảo đảm ổn định và thúc đẩy sự tương tác giữa các chủ thể. “Các nhà lý thuyết hệ thống cho rằng hệ thống quốc tế có tác động quan trọng lên các quốc gia; môi trường quốc tế ràng buộc và quy định các quốc gia một cách mạnh mẽ”. Như vậy hệ thống quốc tế tuy theo quan điểm của Chủ nghĩa Hiện thực là vô chính phủ (cấu trúc quyền lực giữa các quốc gia được sắ́p xếp theo chiều ngang) nhưng theo quan điểm của Chủ nghĩa Tự do thì lại không vô tổ chức, ví dụ: Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) buộc siêu cường số 1 thế giới là Mỹ phải hạ thuế đối với mặt hàng thép của Ấn Độ vào năm 2000; Nghị quyết 1701 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã ngăn chặn thành công xung đột Liban – Israel năm 2006……

Hệ thống quốc tế là hệ thống phụ thuộc lẫn nhau, các chủ thể khác nhau trong hệ thống vừa có thể bị ảnh hưởng vừa có thể bị tổn thương bởi hành động của các chủ thể khác, ví dụ, hành động Trung Quốc tăng cường quân sự hóa ở Biển Đông năm 2016 đã đe dọa chủ quyền lãnh thổ, tự do và an ninh hàng hải đối với một số quốc gia khác; thông tin thị trường lao động Mỹ khởi sắ́c trong tháng 6 năm 2016 đã khiến cho thị trường chứng khoán chủ chốt toàn cầu tăng điểm ngay tức thì. Từ phân tích này có thể thấy, dự đoán thứ nhất hợp lý hơn dự đoán thứ hai.

Bước sang thế kỷ 21, quan hệ Mỹ – Trung đã trở thành tâm điểm của thế giới, cựu Ngoại trưởng Mỹ John Kerry (2014) đã thừa nhận quan hệ Mỹ – Trung có tính nhân-quả nhất trên thế giới ngày nay, vì vậy cần được quản lý hết sức cẩn thận và quan hệ này là nhân tố quan trọng nhất định hình thế kỷ 21. Sự hợp tác Mỹ-Trung cần thiết cho sự ổn định và phát triển toàn cầu như chống khủng bố, ngăn ngừa phổ biến vũ khí hạt nhân, ứng phó với biến đổi khí hậu và khủng hoảng tài chính và tăng cường vai trò của các thể chế quốc tế. Hơn nữa, xét từ góc độ quyền lực, cán cân quyền lực Mỹ-Trung cũng không còn quá nghiêng về Mỹ. Xét từ góc độ kinh tế, Mỹ và Trung Quốc là hai nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trung Quốc là chủ nợ hàng đầu của Mỹ, Mỹ là nhà nhập khẩu lớn nhất của Trung Quốc. Hai nền kinh tế lớn này có sự phụ thuộc vào nhau rất chặt chẽ, nhất cử̉ nhất động của hai nền kinh tế này đều ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu. Xét từ góc độ quân sự, Mỹ là cường quốc quân sự số 1 thế giới với hệ hống các liên minh quân sự rộng khắ́p toàn cầu và được xem là “cảnh sát” toàn cầu. Dù tiềm lực quân sự của Trung Quốc không bằng Mỹ, Trung Quốc cũng không có hệ thống các liên minh quân sự như Mỹ, nhưng với tiềm lực quân sự hiện có, Trung Quốc vẫn có đủ sức để tạo ra mối răn đe sống còn đối với Mỹ nếu xảy ra xung đột. Một cuộc chiến Mỹ-Trung sẽ là thảm họa không chỉ đối với hai nước mà là toàn cầu.

Xét theo yếu tố hệ thống, Mỹ hoặc Trung Quốc nếu đơn phương gây căng thẳng một cách phi lý thì sẽ không chỉ bị bên còn lại đáp trả, mà còn bị các thể chế quốc tế và những quốc gia bị ảnh hưởng phản đối. Từ đó dẫn đến chính bản thân mình cũng sẽ bị ảnh hưởng. Nếu Mỹ hoặc Trung Quốc bất chấp các thể chế và các chủ thể trong hệ thống quốc tế để làm theo ý mình, thì hệ thống quốc tế sẽ bị hủy hoại, trật tự thế giới bị đảo lộn, thế giới sẽ rối loạn.

Với quan niệm truyền thống của Mỹ là Mỹ có vai trò duy trì trật tự thế giới, trong khi đó Trung Quốc cũng ý thức được mình đang trong quá trình trỗi dậy, cả hai sẽ không làm như vậy. Quan hệ Mỹ-Trung có thể có những căng thẳng, nhưng sẽ khó có xung đột hoặc biến động lớn nào xảy ra.

Hệ thống chính trị quốc nội: Đã có những sự tranh luận về ảnh hưởng của hệ thống chính trị quốc nội đối với chính sách đối ngoại của quốc gia, chẳng hạn như Chủ nghĩa Hiện thực tấn công không coi trọng hệ thống chính trị quốc nội nhưng Chủ nghĩa Hiện thực phòng thủ thì lại rất coi trọng hệ thống chính trị quốc nội, Chủ nghĩa Hiện thực tân cổ điển hài hòa hơn khi coi trọng cả hệ thống quốc tế và hệ thống chính trị quốc nội.

Trên thực tế ảnh hưởng của hệ thống chính trị quốc nội đến chính sách đối ngoại là không thể phủ định vì chính sách đối ngoại là nhằm để bảo vệ và đạt được các lợi ích quốc gia. Vì vậy nhiều nghiên cứu cho rằng hệ thống chính trị quốc nội là một bộ phận đặc biệt giải thích cho chính sách đối ngoại. Để hiểu được ảnh hưởng này thì cần phải làm rõ cơ chế hoạch định và những yếu tố tác động đến chính sách đối ngoại của Mỹ và Trung Quốc.

Hiến pháp Mỹ không quy định cụ thể việc hoạch định chính sách đối ngoại, nhưng Tổng thống Mỹ dựa vào các ủy ban, bộ, hội đồng thuộc chính phủ để xây dựng và thực thi chính sách đối ngoại, tuy nhiên cần có sự chuẩn thuận (ngân sách, tính hợp pháp) của Quốc hội để chính sách đối ngoại đó có thể thực hiện được. Ngoài ra, Quốc hội Mỹ cũng có thể trực tiếp tham gia vào hoạch định chính sách đối ngoại bằng các luật hay quyết định, chẳng hạn như Quốc hội Mỹ nếu thông qua dự luật trừng phạt Trung Quốc do Thượng nghị sĩ Mỹ Marco Rubio đệ trình “sẽ buộc chính quyền của Tổng thống Donald Trump phải có các biện pháp cứng rắ́n với Trung Quốc”. Ở quốc gia dân chủ như Mỹ, dư luận công chúng rất quan trọng đối với chính sách đối ngoại. Một chính sách đối ngoại không hợp lòng dân, hậu quả tức thời là những cuộc biểu tình của người dân sẽ tạo nên lực cản rất lớn đối với chính sách đối ngoại, hậu quả sâu xa là người dân Mỹ sẽ bỏ phiếu cho đảng đối lập để hạ bệ đương kim Tổng thống và đảng cầm quyền. Bầu cử̉ là sự quyết định của người dân đối với sự cầm quyền của bất cứ chính đảng nào ở Mỹ.

Khác với Mỹ, Trung Quốc là nước Xã hội Chủ nghĩa và chỉ do Đảng Cộng sản cầm quyền. Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo toàn diện đất nước Trung Quốc. Vì vậy, dù Bộ Ngoại giao là cơ quan hoạch định chính sách đối ngoại, “nhưng các chính khách trong Thường vụ Bộ Chính trị mới là những người phụ trách chính sách đối ngoại với Mỹ, Nhật Bản và Đài Loan”. Như vậy, cơ quan quyền lực tối cao quyết định chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Mỹ là Thường vụ Bộ chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên, tiếng nói của người dân được nuôi dưỡng bởi chủ nghĩa dân tộc luôn có tác động không nhỏ đến chính sách đối ngoại của Trung Quốc, đặc biệt là chính sách đối ngoại đối với Mỹ. Theo Susan L. Shirk (2008), “mỗi khi công chúng quan tâm nhiều đến một vấn đề nào đó, giới lãnh đạo lại cảm thấy cần phải hành động cứng rắ́n để chứng tỏ sự mạnh mẽ của họ. Giống như những trang hảo hán Tàu, họ từ bỏ thái độ trung dung thường thấy trong các vấn đề quốc tế và thể hiện mình như những siêu anh hùng theo chủ nghĩa dân tộc”. Một thế lực có ảnh hưởng quan trọng đến chính sách đối ngoại của Trung Quốc là Quân Giải phóng Nhân dân (PLA). PLA có tiếng nói có trọng lượng trong các cơ quan quyền lực của Trung Quốc như “chiếm đa số ghế trong Ban Chấp hành Trung ương (khoảng 22%) số ủy viên chuyên trách và có 2 đại diện trong số 24 thành viên Bộ Chính trị… khoảng 10% đại biểu cơ quan lập pháp của Trung Quốc – Quốc hội Nhân dân thuộc giới mặc quân phục” và có thành viên trong Tiểu ban Lãnh đạo Trung ương LSGs, cơ quan được lãnh đạo bởi Tổng Bí thư và chịu trách nhiệm báo cáo với Thường vụ Bộ Chính trị. PLA “luôn luôn có ảnh hưởng chính trị vì mối quan hệ mật thiết của nó với giới tinh hoa trong Đảng và hào quang chiến thắ́ng của quân đội cách mạng”, điển hình là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản đồng thời là Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Tuy nhiên, ảnh hưởng của PLA đến chính sách đối ngoại của Trung Quốc chủ yếu được thể hiện ở vai trò là cơ quan sở hữu sức mạnh quân sự và đảm bảo an ninh quốc gia. PLA có những lợi ích riêng, khi an ninh Trung Quốc được cho là bị đe dọa thì lợi ích của PLA sẽ tăng lên, từ đó tạo ra “yếu tố Diều hâu” trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc.

Từ hệ thống chính trị quốc nội Mỹ có thể thấy, Đảng Cộng hòa, với truyền thống là: Mỹ là lãnh đạo và cảnh sát thế giới, không nước nào được qua mặt; biên giới là một điều tất yếu để định nghĩa và bảo vệ một quốc gia, biên giới là một thứ bất khả xâm phạm; Mỹ là thế lực đạo đức vĩ đại nhất trong tất cả các quốc gia trên thế giới; mối đe dọa lớn nhất đối với thế giới là độc tài, chủ nghĩa Hồi giáo; tăng cường ngân sách quốc phòng, chiến tranh đôi lúc là giải pháp tốt và duy nhất, hòa bình thông qua sức mạnh, vì địch chỉ sợ sức mạnh chứ không sợ lời nói, không giới hạn sức mạnh, quy mô và mục tiêu chiến tranh, sẽ thúc ép chính quyền của Donald Trump cứng rắ́n với Trung Quốc,, đặc biệt trong tranh chấp lãnh thổ với các nước. Tuy nhiên, do “hai cường quốc đã lệ thuộc vào nhau ở mức độ cao, sự xâm nhập lẫn nhau giữa hai nền kinh tế là rất sâu đậm”, “Trung Quốc cho phép Hoa Kỳ tránh được những nguy cơ ngày càng tăng của tình trạng thiếu tiết kiệm, chính sách tài khóa thiếu thận trọng, và tăng trưởng thu nhập hộ gia đình yếu”. Nếu căng thẳng đến mức xung đột làm ảnh hưởng lớn đến chính nước Mỹ thì dư luận và các nhóm lợi ích tại Mỹ sẽ không để yên. Vì vậy, Mỹ tăng cường các hành động gây căng thẳng những sẽ không để xảy ra xung đột quy mô lớn giữa Mỹ và Trung Quốc.

Trong khi đó ở Trung Quốc, mục đích tối cao của chính sách đối ngoại Trung Quốc là duy trì quyền lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chủ nghĩa dân tộc trong dân chúng và thế lực quân đội ở Trung Quốc cũng sẽ thúc ép lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc phải cứng rắ́n và quyết liệt với Mỹ, đặc biệt trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ và Đài Loan, Biển Đông, vấn đề thương mại. Đảng Cộng sản Trung Quốc phải đối mặt với sự bất mãn của dân chúng và sự thúc ép của các tập đoàn, công ty xuất khẩu để có các biện pháp cứng rắn đáp trả Mỹ.

Thực trạng quan hệ Mỹ – Trung sau 2 năm Tổng thống Donald Trump cầm quyền

Năm đầu tiên, sau khi trở thành tổng thống, ngày 8/11/2016, ông Trump sang thăm Trung Quốc lần đầu, tiếp nối tập quán truyền thống của hai người tiền nhiệm Bill Clinton và Barak Obama trước đó. Sau gần 2 năm, trước ngày diễn ra cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ vào ngày 6.11.2018,  chính phủ Donald Trump đang ở trong tình trạng chiến tranh thương mại toàn diện với Trung Quốc; một nửa số hàng hóa Trung Quốc xuất sang Mỹ và tuyệt đại đa số hàng hóa Mỹ xuất sang Trung Quốc bị gia tăng thuế suất, quan hệ Mỹ – Trung đã hoàn toàn “đi lệch khỏi quỹ đạo”. Cục diện hợp tác gần 40 năm nay giữa hai thực thể kinh tế lớn nhất toàn cầu hoàn toàn thay đổi, sự đối đầu cùng các động thái giao tranh từng bước leo thang với mức độ kinh hoàng.

Trong thời gian tranh cử vào Nhà Trắng, ông Trump phẫn nộ cáo buộc Trung Quốc cướp đi cơ hội việc làm của người Mỹ. Ông tuyên bố: “ngày đầu tiên sau khi nhậm chức sẽ coi Trung Quốc là nước thao túng hối suất” và còn cam kết, sẽ khiến cho những người lãnh đạo “xảo quyệt” của Trung Quốc không còn có cơ hội chiến thắng Mỹ bằng trí tuệ và mánh khóe trong các cuộc đàm phán.

Thế nhưng, trong năm đầu tiên nắm quyền, Donald Trump đã 3 lần gặp gỡ ông Tập Cận Bình tựa hồ đã thay đổi bộ mặt cứng rắn của ông đối với Trung Quốc. Bắt đầu là cuộc gặp gỡ tại trang trại riêng Mar-a-Lago, đến gặp gỡ bên lề Hội nghị cấp cao G20 Hamburg, rồi đến cuộc trà đàm tại Bảo Uẩn Lâu trong Cố Cung Bắc Kinh. Hai nhà lãnh đạo không từ mọi cơ hội thể hiện “quan hệ cá nhân tốt đẹp” trên các phương tiện truyền thông. Người lãnh đạo Trung Quốc phát hiện ra rằng, sự công kích Trung Quốc của ông Donald Trump chỉ dừng ở trên Twitter mà thôi.

Nhưng bước sang nửa cuối năm 2018, ông Donald Trump bỗng quay trở lại với bộ mặt cứng rắn với Trung Quốc trong thời gian tranh cử, bắt đầu thực hiện những lời cam kết khi đó. Đầu tháng 7, Mỹ gia tăng thuế suất đối với 34 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc nhập khẩu, cuộc chiến mậu dịch Mỹ – Trung chính thức khai màn. Từ đó, đường dây điện thoại nóng giữa Donald Trump và Tập Cận Bình vốn hoạt động nhộn nhịp nay không đổ chuông nữa. Cuối tháng 9, ông Trump khi phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã phê phán đích danh Trung Quốc. Đến ngày 4/10, Phó Tổng thống Mike Pence khi phát biểu tại Viện nghiên cứu Hudson đã dùng những lời lẽ chưa từng có khi nói về chính sách với Trung Quốc. Đây được coi là tín hiệu cho thấy cuộc cạnh tranh toàn diện máu lửa Mỹ – Trung đã đến gần.

Tương lai mối quan hệ thương mại Trung – Mỹ

Cán cân thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng chênh lệch, số tiền đầu tư của Trung Quốc vào trái phiếu kho bạc Mỹ càng tăng lên, thực sự không bền vững. Tuy nhiên, phụ thuộc kinh tế thương mại giữa hai nước đã đến mức “trong anh có tôi, trong tôi cũng có anh”, do vậy việc tháo gỡ vấn đề cán cân tài chính buộc phải thận trọng.

Theo tờ “Đại Công báo” (Hong Kong), trước khi Mỹ điều chỉnh chiến lược toàn cầu và tuyên bố Trung Quốc là một trong những đối thủ chính của họ, quan hệ Mỹ – Trung đã ở vào tình trạng bất định, “không tốt, cũng chẳng xấu” và chủ yếu dựa trên ba nhân tố. Thứ nhất, quan hệ kinh tế thương mại ngày càng sâu sắc và mở rộng giữa hai nước, Trung Quốc được coi là “hòn đá tảng” trong quan hệ Mỹ – Trung. Thứ hai, hai nước là cường quốc của thế giới, chịu trách nhiệm trước những thách thức chung của nhân loại, lĩnh vực hợp tác quan trọng nhất là cùng nhau ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Thứ ba, cả hai nước đều là các cường quốc hạt nhân, đều có khả năng tiêu diệt lẫn nhau, do đó buộc phải nghiêm túc kiểm soát những rủi ro khó lường từ đối đầu quân sự tiềm ẩn.

Một số nhà bình luận luôn thổi phồng rằng Mỹ có kho vũ khí hạt nhân hơn hẳn Trung Quốc, do vậy Bắc Kinh chỉ có thể khuất phục. Tuy nhiên, khi hai bên đều có khả năng tiêu diệt lẫn nhau thì sự so sánh quy mô của kho vũ khí hạt nhân là vô nghĩa. Trong khi Tư lệnh Bộ Tư lệnh chiến lược Mỹ John E. Hyten trong một cuộc họp mới đây đã thừa nhận hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ hiện nay không thể đối phó được mối đe dọa từ tên lửa thế hệ mới của Trung Quốc và Nga. Tuy nhiên, ngay cả khi Trung Quốc có vũ khí hạt nhân để kiềm chế Mỹ, cũng chỉ có thể tránh mối quan hệ giữa hai nước xấu đi đến mức có thể nảy sinh một cuộc chiến trực tiếp. Quan hệ Mỹ – Trung muốn duy trì trạng thái bình thường buộc phải dựa vào những yếu tố khác.

Việc ông Trump rút khỏi Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu toàn cầu ít nhất đã khiến hai nước Mỹ và Trung Quốc tạm thời giảm bớt một lĩnh vực hợp tác quan trọng, điều này gây tổn hại đến mối quan hệ giữa hai nước.

Đòn tấn công lớn nhất vào mối quan hệ Trung – Mỹ tất nhiên là cuộc chiến thương mại mà Tổng thống Trump khơi mào nhằm vào Trung Quốc, hiệu quả khách quan của nó là kiểm nghiệm “hòn đá tảng” trong quan hệ hai nước. Sự mất cân bằng thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ đã tồn tại từ đầu thế kỷ 21 đến nay, tương ứng với đó là thâm hụt ngân sách dài hạn của Mỹ ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc. Cán cân thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng chênh lệch, số tiền đầu tư của Trung Quốc vào trái phiếu kho bạc Mỹ càng tăng lên, thực sự không bền vững. Tuy nhiên, phụ thuộc kinh tế thương mại giữa hai nước đã đến mức “trong anh có tôi, trong tôi cũng có anh”, do vậy việc tháo gỡ vấn đề cán cân tài chính buộc phải thận trọng.

Xu hướng hiện nay là Mỹ liên tục nâng cấp quy mô cuộc chiến thương mại, trong khi Trung Quốc sẽ “phản công” bằng quy mô tương tự. Bởi vì xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ lớn hơn nhiều so với xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc, nếu ông Trump thực sự áp thuế với toàn bộ hàng hóa Trung Quốc, nước này sẽ phản đòn. Trừ khi hai bên đều thừa nhận quan hệ thương mại hai nước là không thể bị phá vỡ, nếu không mọi lĩnh vực đã được thiết lập liên quan đến quan hệ thương mại hai nước nhiều khả năng sẽ “gặp họa”.

Vì vậy, quan hệ thương mại Mỹ – Trung sẽ phụ thuộc vào khả năng chịu đựng của mỗi nước. Khả năng chịu đựng phụ thuộc vào hai khía cạnh: Một là sức chịu đựng về kinh tế của hai nước, hai là sức chịu đựng của người dân hai nước. Ngoài ra, tùy thuộc vào phản ứng của mỗi nước có sẽ có ảnh hưởng đến quan hệ thương mại song phương. Trung Quốc và Mỹ lần lượt là nước thương mại hàng hóa lớn thứ nhất và thứ hai toàn cầu, có quan hệ thương mại phức tạp với nhiều nước, cuộc chiến thương mại không chỉ trực tiếp tác động vào hai nước, mà còn gây tổn hại đến một loạt các nước khác, trong đó có Liên minh châu Âu (EU), Nga, Nhật Bản, những nước và đối tác có vai trò quan trọng trong quan hệ Mỹ – Trung.

RELATED ARTICLES

Tin mới