Bộ trưởng Quốc phòng Singapore Ng Eng Hen hôm 17/2 cho biết các nước ASEAN và Trung Quốc sẽ tiến hành đàm phán về xây dựng Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Sau khi “Dự thảo khung COC” lần đầu tiên được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và Trung Quốc hồi tháng 8/2017, mặc dù các bên đều thể hiện thiện chí, song đến nay COC vẫn chưa có kết quả đột phá nào. Vậy đâu là nguyên nhân? Dưới đây là một số phân tích của giới nghiên cứu về những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình đàm phán xây dựng COC hiện nay.
Ý đồ chiến lược và hoạt động của TQ ở Biển Đông
Sau khi “Dự thảo khung COC” lần đầu tiên được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và Trung Quốc tổ chức ở Philippines hồi tháng 8/2017, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị từng tuyên bố các đàm phán đáng kể về nội dung của bộ quy tắc sẽ chỉ có thể bắt đầu nếu “không có sự phá hoại lớn từ các bên bên ngoài”, một lời ám chỉ úp mở về Mỹ, nước mà Trung Quốc luôn cáo buộc là “can thiệp” vào cuộc tranh chấp. Thực chất, căn cứ vào tình trình xây dựng COC giữa Trung Quốc và ASEAN, cũng như những gì mà Trung Quốc đã nói và làm trên thực tế, dư luận đều nhận thấy rằng quá trình đàm phán COC đã kéo quá dài và gặp nhiều khó khăn, không phải do sự can thiệp của bên thứ 3 mà do chính phía Trung Quốc. Trước đây, Tuyên bố chung ASEAN-Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) đã kêu gọi các bên thông qua COC, nhưng mãi đến năm 2013, Trung Quốc mới đồng ý cùng với các nước ASEAN gặp nhau để “tham vấn” về COC. Tuy nhiên, do phía Trung Quốc không ngừng tiến hành các hoạt động vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia xung quanh Biển Đông, đặc biệt là đối với Việt Nam và Philippines, một số thành viên ASEAN đã nhiều lần kêu gọi xúc tiến các cuộc đàm phán về COC. Sau khi Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 ra phán quyết lịch sử vào ngày 12/7/2016 thì Trung Quốc mới đồng ý đẩy nhanh tiến trình “tham vấn”. Theo nhận định của các học giả quốc tế thì có hai lý do có thể giải thích tại sao Trung Quốc đồng ý làm vậy. Một là để cứu vãn uy tín do Phán quyết Tòa Trọng tài đã thẳng thừng bác bỏ yêu sách phi lý theo đường “lưỡi bò” của Trung Quốc trong Biển Đông, Bắc Kinh muốn đánh lạc hướng sự chỉ trích việc nước này bác bỏ phán quyết của Tòa. Hai là, mặc dù phán quyết hoàn toàn ủng hộ Philippines, song Tổng thống Philippines Duterte đã quyết định đặt nó sang một bên và ưu tiên tăng cường quan hệ kinh tế với Trung Quốc song song với việc tiến hành đàm phán song phương để giải quyết các yêu sách về chủ quyền và quyền tài phán chồng chéo của hai nước. Trung Quốc cho rằng COC vẫn là một văn kiện chính trị, trong khi đó, một số thành viên ASEAN, đặc biệt là các nước có liên quan trực tiếp đến vấn đề tranh chấp Biển Đông đã đề nghị COC phải là một thỏa thuận ràng buộc pháp lý và phải được đề cập một cách toàn diện và hiệu quả hơn DOC, vốn chỉ là một tuyên bố chính trị. Ngoài các điều khoản chi tiết và cụm từ “có tính ràng buộc về mặt pháp lý”, có một vài vấn đề quan trọng không được đưa vào thỏa thuận. Một là, dự thảo khung này không đề cập đến phạm vi địa lý của COC. Hai là, trong khi văn bản này đề cập đến “các cơ chế giám sát việc thực thi”, nó lại không nói gì đến các biện pháp chế tài trong trường hợp nếu một bên cáo buộc một bên khác vi phạm bộ quy tắc này.
Thái độ với TQ và chính sách thực dụng của Philippines
Sau Phán quyết của Tòa Trọng tài (12/7/2016), nội bộ chính giới và dư luận Philippines cũng đã có những nhận thức, quan điểm khác nhau về kế sách có thể áp dụng cho thời kỳ hậu Phán quyết theo các hướng: Một là, tiếp tục đấu tranh không khoan nhượng với Trung Quốc, nhưng bằng lý lẽ ôn hòa, trên cơ sở thống nhất nhận thức về tính khả thi của Phán quyết Trọng tài trong điều kiện và bối cảnh quốc tế hiện nay để có sách lược đấu tranh thích hợp, vừa không đẩy tranh chấp lên đỉnh điểm dễ dẫn đến xung đột, vừa tiếp tục duy trì giá trị của Phán quyết Tòa Trọng tài nhằm sử dụng trong quá trình đàm phán và đấu tranh pháp lý với Trung Quốc trong các diễn đàn khu vực và quốc tế, chống lại các hành động bất chấp luật pháp của Trung Quốc. Hai là, trước sức ép của Trung Quốc, vì lợi ích kinh tế, chính trị trong quan hệ với Bắc Kinh, Philippines phải xuống thang, nhân nhượng Trung Quốc bằng cách trực tiếp hay gián tiếp phớt lờ thành quả đấu tranh pháp lý của chính mình do Phán quyết Trọng tài mang lại. Thực tế đến này, nhiều ý kiến đã nghiêng về hướng thứ 2. Philippines đã thay đổi trong chính sách từ chống Trung Quốc kịch liệt sang hòa hoãn, thắt chặt quan hệ để tìm kiếm lợi ích từ mối quan hệ với Trung Quốc. Cả Tổng thống Duterte lẫn Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đều tuyên bố quan hệ Trung Quốc – Philippines đang trong kỳ trăng mật và nhiều hứa hẹn trong tương lai. Philippines đã nhận được cam kết viện trợ 24 tỉ USD đầu tư từ Trung Quốc.
Vai trò dẫn dắt, trung tâm của ASEAN
ASEAN có vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết các tranh chấp Biển Đông. Bởi vì, các quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của hầu hết các quốc gia thành viên của ASEAN đều bị vi phạm, trực tiếp hoặc gián tiếp, bởi các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trong Biển Đông. Trong lịch sử các thành viên của Hiệp hội ASEAN đã có nhiều đóng góp rất quan trọng cho tiến trình giải quyết các tranh chấp phức tạp này thông qua các Nghị quyết, Tuyên bố, điển hình như DOC. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, ASEAN đã có lúc bộc lộ những điểm yếu của mình về sự đoàn kết, thống nhất nội bộ. Thậm chí có lúc không ra được Tuyên bố chung, không có tiếng nói đồng thuận trong một số vấn đề pháp lý, chính trị liên quan đến tình hình Biển Đông. Việt Nam và Philippines cần tiếp tục vận động trên cơ sở có lý có tình, thông cảm đến hoàn cảnh của từng thành viên để có cách ứng xử thích hợp, trên cơ sở chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm chung. Trong cuộc đàm phán sắp tới có thể Philippines sẽ tiếp tục thể hiện thái độ “hòa dịu” hơn với Trung Quốc về vấn đề Biển Đông. ASEAN cần có tiếng nói mạnh mẽ hơn, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc vẫn tiếp tục quân sự hóa Biển Đông.
Vai trò tích cực, chủ động của Việt Nam
Xuất phát từ chính sách đối ngoại hòa bình, nên từ trước khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã nhiệt liệt ủng hộ Tuyên bố của ASEAN về Biển Đông. Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào việc soạn thảo, thương lượng nội dung các quy định trong DOC. Sau khi DOC được ký, chúng ta tiếp tục nêu cao vai trò, trách nhiệm tuân thủ các cam kết trong DOC; có các bước đi thích hợp để các nước hiểu rõ lập trường của nước ta về Biển Đông, kiên trì cùng các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS; thúc đẩy thực hiện đầy đủ DOC, tiến tới xây dựng COC nhằm góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông. Xây dựng COC là việc làm cấp thiết, đem lại lợi ích không chỉ cho ASEAN và Trung Quốc mà cho tất cả các nước ở trong và ngoài khu vực. Là thành viên trong ASEAN, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm của mình tích cực tham gia xây dựng COC thực sự là cơ sở pháp lý hàng đầu, nhân tố quan trọng góp phần ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, đảm bảo duy trì hòa bình, ổn định, an ninh cho vùng Biển Đông nói riêng, khu vực châu Á – Thái Bình Dương và thế giới nói chung.
Kết luận: Để có được COC đóng vai trò như một bộ Luật Biển khu vực vẫn còn nhiều trở ngại cần được vượt qua. Nguyên nhân chính là do có những tranh chấp phức tạp về mặt pháp lý trong việc xác lập các vùng biển và thềm lục địa xuất phát từ việc giải thích và áp dụng khác nhau các quy định của UNCLOS 1982; tranh chấp chủ quyền đối với các hải đảo trong Biển Đông. Đặc biệt là một số thành viên khi tham gia với những động cơ chính trị khác nhau, tiêu biểu là Trung Quốc, một thành viên đã có những hoạt động vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia khác xung quanh Biển Đông, bất chấp luật pháp quốc tế và các cam kết chính trị đã đạt được. Trung Quốc đã và đang tìm cách trì hoãn quá trình thương thảo để tranh thủ tạo được lợi thế trong đàm phán về COC. Chừng nào yêu sách “lưỡi bò” của Trung Quốc chưa được hợp thức hóa trong việc xác lập phạm vi điều chỉnh COC thì chừng đó không thể có được COC. Điều đó đồng nghĩa với việc Trung Quốc phải thực hiện bằng được chiến lược độc chiếm Biển Đông, dùng Biển Đông để vươn lên tranh giành vị trí siêu cường số một thế giới đối trọng với Mỹ. Và như vậy có thể thấy rằng cái gọi là “đã đạt được bản thảo đầu tiên của Bộ quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông” do Trung Quốc chủ động thông tin là cố ý thổi phồng, nhằm mục đích tuyên truyền, mê hoặc dư luận vì động cơ chính trị. Có chăng chỉ có thể là “đã đạt tiến triển tốt trong việc xây dựng“bộ khung COC với Trung Quốc” như phía Philppines thông báo.