Trung Quốc tiến hành chia rẽ, phân hóa các nước ASEAN, nhất là chia rẽ ASEAN với Việt Nam, nhằm phân tán sức mạnh đoàn kết của ASEAN. Một khi ASEAN bị chia rẽ, không coi Biển Đông là vấn đề chung của Hiệp hội mà chỉ là vấn đề giữa Trung Quốc với một nước ASEAN thì Trung Quốc có thể dễ đạt được các thoả hiệp có lợi nhất về vấn đề Biển Đông.
Hội nghị ngoại trưởng ASEAN – TQ bàn về Biển Đông. Nguồn: AP
Trung Quốc lợi dụng sự bất đồng về lợi ích, về quan điểm giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông của các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền để gây chia rẽ, không để các nước này đoàn kết thành một khối để đối trọng với Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc sử dụng con bài “viện trợ” để các nước này vì lợi ích quốc gia trước mắt mà không ủng hộ các nước ASEAN khác trong “Hồ sơ Biển Đông”; chủ trương đàm phán riêng rẽ đối với các nước có liên quan trực tiếp đếntranh chấp ở Biển Đông để đạt lợi ích riêng, tạo nghi ngờ giữa các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.
Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng đối với các nước ASEAN khác nhằm tách họ khỏi các vấn đề Biển Đông, tập trung bao vây, cô lập Việt Nam với các nước ASEAN, vì Trung Quốc cho rằng Việt Nam là lực cản lớn nhất đối với chiến lược độc chiếm Biển Đông của họ. Điều đó giải thích vì sao có những nước có quan hệ rất tốt với Việt Nam, nhưng không dám bày tỏ ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong vấn đề Biển Đông, thậm chí coi đây là chuyện riêng giữa Trung Quốc với Việt Nam, giữa Trung Quốc với Philippines hoặc né tránh bày tỏ quan điểm bằng lý do “không can thiệp công việc nội bộ nước khác”. Trung Quốc đưa ra các sáng kiến “Vịnh Bắc Bộ mở rộng” với chủ trương “gác tranh chấp cùng khai thác”, muốn biến Biển Đông thành “con đường tơ lụa trên biển” trong thế kỷ 21, để lôi kéo các nước ASEAN có liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông và chứng tỏ với ASEAN là Trung Quốc muốn giải quyết hòa bình vấn đề tranh chấp Biển Đông.
Trung Quốc cũng lôi kéo một số nước thành viên ASEAN phản đối đàm phán đa phương với ASEAN về vấn đề Biển Đông. Trung Quốc chủ trương đàm phán song phương với từng nước ASEAN, không đàm phán chung với cả Hiệp hội về vấn đề Biển Đông. Chủ trương của Trung Quốc là chủ quyền ở Biển Đông thuộc về Trung Quốc và hạ thấp vai trò trung tâm, sức mạnh tập thể của ASEAN trong các vấn đề an ninh khu vực, dùng sức mạnh của nước lớn để giải quyết riêng rẽ với từng nước thành viên ASEAN có tranh chấp chủ quyền, qua đó làm tăng vai trò nước lớn của Trung Quốc.
Cùng với việc phản đối đàm phán về vấn đề Biển Đông với ASEAN, Trung Quốc đồng thời vô hiệu hóa các nội dung Tuyên bố về Ứng xử của các bên liên quan trên Biển Đông (DOC) mà hai bên phải mất 12 năm đàm phán mới đi đến ký kết năm 2002. Trung Quốc luôn nói tuân thủ DOC, nhưng thực tế Trung Quốc trắng trợn hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 vào sâu vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam hồi tháng 5/2014, đưa các tàu, kể cả tàu chiến và máy bay quân sự chủ động đâm va, dùng vũ lực đối với các lực lượng chấp pháp dân sự, thậm chí đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam, đe dọa an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông, bất chấp phản đối của Việt Nam và nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế. Hành động này không chỉ vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS), mà còn vi phạm DOC mà Trung Quốc là một bên ký kết. Trung Quốc còn công bố một tấm bản đồ “đường 10 đoạn” dựa trên cơ sở “đường 9 đoạn” phi lý, phi pháp, ngang ngược ghi chú các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam hay quần đảo đang tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư với Nhật Bản vào lãnh thổ của Trung Quốc. Trung Quốc tìm lý do trì hoãn thảo luận và ký kết với ASEAN về Bộ Quy tắc Ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông (COC).
Trung Quốc cũng lôi kéo ASEAN ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ và đồng minh ở khu vực. Trung Quốc vận động để ASEAN không ủng hộ lập trường của Mỹ trong vấn đề Biển Đông và sử dụng vấn đề này nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực. Trung Quốc luôn coi Đông Nam Á là “khu vực ảnh hưởng truyền thống” của mình. Trước việc Mỹ thực hiện chính sách “tái cân bằng” ở khu vực, lấy Biển Đông làm khâu đột phá để làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc, nước này đã tìm cách phản công lại bằng cách quy kết lập trường của Mỹ về Biển Đông chỉ mang lại lợi ích cho Mỹ, không có lợi cho ASEAN. Trung Quốc ban hành các quy định về vùng đặc quyền kinh tế, cấm các nước khác khảo sát, đo đạc trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc; phản đối hoạt động của các tàu do thám Mỹ, mưu toan đẩy hải quân Mỹ ra khỏi Biển Đông nhằm phá thế bao vây về quân sự của Mỹ. Đồng thời, Trung Quốc mưu toan dùng quân sự để khống chế các đường hàng hải quốc tế ở Biển Đông nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực và hạn chế khả năng Mỹ can thiệp vào vấn đề Đài Loan khi có tình huống xảy ra.
Kết luận: Trong bối cảnh hiện nay và chính sách lôi kéo, chia rẽ trên của Trung Quốc, ASEAN cần có nhận thức đi cùng một quyết tâm và trách nhiệm chính trị cao hơn. Việc tham gia giải quyết mâu thuẫn, tạo lập các cơ chế để củng cố lòng tin, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi của ASEAN. Mỗi thành viên ASEAN phải coi đây là lợi ích của chính mình, phải coi lợi ích của toàn Hiệp hội gắn liền với lợi ích quốc gia mình. ASEAN cần thống nhất, đoàn kết hơn nữa trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông. việc tham gia ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông còn giúp ASEAN duy trì và củng cố vai trò trung tâm, động lực thúc đẩy, kết nối, kiến tạo các cơ chế hợp tác đa phương ở châu Á – Thái Bình Dương. Điều đó làm tăng sức đề kháng của ASEAN và các nước thành viên trước sức ép gia tăng về địa chính trị do cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, trước hết là giữa Mỹ và Trung Quốc; đồng thời làm tăng sức hấp dẫn và tính hiệu quả của ASEAN và các nước thành viên trong việc mở rộng hợp tác với các đối tác bên ngoài, đưa vị thế của ASEAN lên tầm cao mới, củng cố vị thế của ASEAN như là một nhân tố không thể thiếu trong kiến tạo môi trường hòa bình, cũng như các cơ chế hợp tác đa phương đã và đang hình thành ở khu vực.