Tuesday, November 19, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaNhân tố đang gây ra nguy cơ bất ổn cho an ninh...

Nhân tố đang gây ra nguy cơ bất ổn cho an ninh ở Biển Đông là ai?

Tại Đại hội khoa học chính trị quốc tế lần thứ 25 do Hiệp hội khoa học chính trị quốc tế (IPSA) tổ chức ở Australia năm 2018, Giáo sư Dmitry Mosyakov – Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á, Australia và châu Đại Dương thuộc Viện Phương Đông học, Viện Hàn lâm khoa học Nga, đã có bài tham luận về vấn đề Biển Đông, thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu, chính trị, học giả nổi tiếng thế giới tham dự đại hội này.

Theo Giáo sư Dmitry Mosyakov, hiện nay, nhiều chuyên gia nghiên cứu về Biển Đông đều cho rằng, cuộc xung đột giữa các bên có tranh chấp ở Biển Đông đã và đang làm thay đổi tính chất vốn có của khu vực này. Xung đột tồn tại trong một thời gian dài đã chuyển từ cấp độ căng thẳng sang đối đầu gay gắt, song cũng có những thời điểm lắng dịu nhờ các cuộc đàm phán giữa các bên có liên quan, đôi khi tạo cảm giác sẽ đi đến thỏa hiệp, nhất là kể từ năm 2002, khi các nước có tranh chấp đã ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Trung Quốc kết nối với Cộng đồng chính trị – an ninh ASEAN.

Tuy nhiên, những tín hiệu tích cực này đã nhanh chóng chìm vào quá khứ, nó được thay thế bằng một thực tế hoàn toàn khác. Và không ai khác, chính Trung Quốc là nước đã phá vỡ các thỏa thuận đó bằng việc tuyên bố chủ quyền của mình theo “đường 9 khúc”, chiếm 80% diện tích Biển Đông, bỏ qua lợi ích của các nước láng giềng, gây ra căng thẳng mới trong khu vực. Đặc biệt, những năm gần đây, căng thẳng có chiều hướng gia tăng do xuất hiện liên tiếp các hành động nguy hiểm đến từ phía Trung Quốc, đe dọa đến môi trường hòa bình và sự ổn định tại Biển Đông.

Nếu như trước đây, khi nói đến xung đột ở Biển Đông, người ta thường chỉ đề cập đến xung đột lợi ích giữa Trung Quốc với Việt Nam, Philippines và các nước ASEAN khác, thì nay đã xuất hiện xung đột giữa Trung Quốc và Mỹ. Gần đây, Mỹ đã không ít lần phớt lờ lời cảnh báo của Trung Quốc, điều máy bay quân sự đến gần các rạn san hô, nơi Trung Quốc đã bồi đắp một cách bất hợp pháp thành các đảo nhân tạo, biến nó thành các cơ sở hạ tầng cho lực lượng hải quân và không quân, trong đó có cả sân bay hiện đại. Mới đây nhất, đầu năm 2019, một tàu khu trục của Hải quân Mỹ đã di chuyển qua các khu vực mà Trung Quốc tuyên bố cấm đối với tàu quân sự. Rõ ràng là, vào bất cứ thời điểm nào, tất cả những hành động như vậy đều có thể dẫn đến một cuộc xung đột quân sự với hậu quả khó lường giữa Trung Quốc và Mỹ.

Trước đây, trong một thời gian dài, Trung Quốc đã có nhiều hành động lấn chiếm ở Biển Đông nhưng không nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Năm 1956, Trung Quốc đánh chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tháng 01/1974, Trung Quốc lại dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, khi đó thuộc quyền kiểm soát của Chính quyền ngụy quyền Sài Gòn, nhưng Mỹ làm ngơ. Tiếp đó, năm 1988 Trung Quốc lại dùng vũ lực chiếm 7 thực thể tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam khiến ít nhất 64 bộ đội Việt Nam hy sinh và liên tục mở rộng sự bành trướng đối với quần đảo Trường Sa. Đến giữa những năm 1990, Trung Quốc đã thiết lập quyền kiểm soát đối với một số hòn đảo, đá tại đây, vốn không thuộc chủ quyền của họ. Vào thời gian đó, mọi nỗ lực nhằm tìm kiếm sự thỏa hiệp với Trung Quốc của các nước đều không mang lại bất kỳ kết quả nào, do đó xung đột đã dần chuyển từ song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam (nước có chủ quyền hợp pháp đối với Trường Sa) thành đa phương khi chiến lược bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông xâm phạm đến lợi ích của hầu hết các nước có tuyên bố chủ quyền trong khu vực.

Năm 2009, đánh dấu một giai đoạn xung đột mới tại Biển Đông khi Trung Quốc gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc chính thức công bố về “đường 9 khúc” bao trọn 2,2 triệu km2, chiếm 80% diện tích Biển Đông mà không dựa trên bất kỳ căn cứ pháp lý nào. Từ thời điểm này, Trung Quốc từng bước biến quyền sở hữu trên hình thức của họ thành quyền sở hữu trên thực tế. Trung Quốc ngày càng có những hành động táo bạo trên thực địa như tiến hành cải tạo, bồi đắp các thực thể mà họ chiếm đóng phi pháp, tăng cường đấu tranh, quân sự hóa cả trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, triển khai những hoạt động quân sự mà đích thân chủ tịch nước Tập Cận Bình chỉ huy. Trung Quốc không chỉ tuyên bố chủ quyền, mà còn tìm cách kiểm soát chặt chẽ các vùng lãnh thổ đó.

Xung đột ở Biển Đông trở nên căng thẳng hơn bởi nhân tố Mỹ, cường quốc số 1 thế giới đã nhân cơ hội này để một lần nữa thể hiện rằng, chỉ có nước Mỹ mới có thể bảo vệ các nước Đông Nam Á trước những hành động bất chấp luật pháp quốc tế của Bắc Kinh. Mỹ coi các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông là “khiêu khích và có khả năng gây nguy hiểm”, và “Trung Quốc không đưa ra được lời giải thích hay biện minh nào trên cơ sở luật pháp quốc tế về những yêu sách của mình đối với Biển Đông”. Tuy nhiên, tuyên bố của Mỹ, các nước phương Tây cũng như phản ứng gay gắt của các nước láng giềng là chưa đủ mạnh để làm Trung Quốc thay đổi chính sách.

Bước đi tiếp theo làm leo thang xung đột ở Biển Đông là việc Bắc Kinh bắt tay thực hiện chương trình thăm dò dầu khí vào năm 2014 tại các khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam – đã được luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) thừa nhận. Đó là việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào hoạt động sâu trong vùng thềm lục địa của Việt Nam.

Đáp lại hành động trên, Việt Nam đã có nhiều hành động cứng rắn kết hợp cả đấu tranh ngoại giao và các biện pháp trên thực địa.

Sau hơn hai tháng đấu trí, đấu lý và đấu sức với Trung Quốc, trước những bằng chứng pháp lý rõ ràng của Việt Nam, cuối cùng Trung Quốc buộc phải di dời giàn khoan HD-981 ra khỏi vùng biển Việt Nam vào giữa tháng 7, thay vì tháng 08/2014 như họ tuyên bố trước đó. Trung Quốc đã không đạt được bất cứ thứ gì, không tìm thấy dầu mỏ, mà ngược lại còn làm xấu đi hình ảnh của họ trên thế giới. Trong khi đó, các hành động phản đối của Việt Nam lại nhận được sự đồng tình ủng hộ của các nước trong và ngoài khu vực.

Sau khi Trung Quốc rút giàn khoan HD-981, an ninh trên Biển Đông lại xoay qua một hướng khác. Trung Quốc đã thực hiện bước đi chiến lược mới để gây áp lực đối với các nước láng giềng bằng việc đẩy mạnh bồi đắp các đảo nhân tạo. Chỉ trong 2 năm 2014 và 2015, Trung Quốc đã bồi đắp cát lên các rạn san hô, bãi đá, làm thành các đảo nhân tạo với diện tích lên đến hàng chục km2. Với việc hoàn thành xây dựng các hòn đảo nhân tạo, một ngày nào đó, Trung Quốc sẽ đạt mục đích mở rộng vùng lãnh hải của các đảo trên ra phạm vi 12 hải lý theo quy định của UNCLOS 1982. Không những thế, những hòn đảo được xây dựng bất hợp pháp đã nhanh chóng được Trung Quốc “quân sự hóa” bằng cách triển khai lực lượng vũ trang đồn trú, xây dựng sân bay cho máy bay vận tải và máy bay quân sự hoạt động. Các thiết bị theo dõi, trinh sát của Mỹ đã phát hiện nhiều tổ hợp tên lửa hành trình các loại bao gồm cả đất đối không, đất đối biển được triển khai; nhiều trạm ra đa trinh sát cấp chiến lược, chiến dịch đã hoạt động; hệ thống tác chiến điện tử cũng đang ráo riết ngăn chặn, kiểm soát tàu thuyền các nước đi lại trong khu vực. Những hòn đảo này đã và đang trở thành trung tâm kiểm soát quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo các chuyên gia Mỹ nhận định, những hành động trên của Trung Quốc chắc chắn sẽ vấp phải sự phản ứng mạnh mẽ từ các nước có tranh chấp và không có tranh chấp tại Biển Đông. Thực tế thời gian qua đã chứng minh nhận định trên là hoàn toàn đúng đắn.

Hành động đơn phương nói trên của Trung Quốc không chỉ gây ra căng thẳng giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, mà còn tạo cơ hội cho Mỹ can dự vào khu vực Biển Đông, đẩy an ninh khu vực vào tình thế bất ổn hơn. Với lý do bảo vệ tự do hàng hải, các tàu chiến của Mỹ đã và đang phá vỡ các ranh giới và giới hạn trên Biển Đông do Trung Quốc thiết lập và di chuyển vào vùng biển tranh chấp mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền, khiêu khích Bắc Kinh, từ đó có thể dẫn đến các cuộc đụng độ quân sự. Và như vậy, kế hoạch đuổi Mỹ ra khỏi khu vực này của Trung Quốc cũng hoàn toàn đổ vỡ, đồng thời tạo cớ cho Mỹ gia tăng sự hiện diện lực lượng quân sự trong khu vực. Giả sử trong cuộc bầu cử Tổng thống Philippines cách đây ít năm, chiến thắng không thuộc về ông Duterte, người đang nỗ lực cân bằng lợi ích giữa Mỹ và Trung Quốc, thì có lẽ Quân đội Mỹ đã tái triển khai lực lượng tại căn cứ hải quân Subic và căn cứ không quân Clark Field trên lãnh thổ Philippines, bởi trước đó trong chuyến thăm Manila hồi tháng 04.2014, Tổng thống Mỹ Barack Obama và các nhà chức trách Philippines trước đây đã đạt được thỏa thuận về việc triển khai đồn trú này.

Có thể khẳng định rằng, bằng các hành động của mình, Trung Quốc đang mở cửa cho Mỹ và các nước đồng minh hiện diện tại Biển Đông, tạo cơ hội để Mỹ củng cố vị thế ở châu Á – Thái Bình Dương nói chung, Đông Nam Á nói riêng. Những hành động đó lại đi ngược với chính sách của Trung Quốc là đuổi Mỹ ra khỏi khu vực. Chính sự mất niềm tin vào Trung Quốc đã buộc các nước láng giềng tìm kiếm sự ủng hộ từ phía Mỹ. Nhiều quốc gia với chính sách đối đầu với Trung Quốc đang lợi dụng việc này để đạt được mục đích của mình là bao vây Trung Quốc bằng cách xây dựng các mối quan hệ đặc biệt không chỉ với Philippines, mà còn với cả Việt Nam, Myanmar…Ý nghĩa của liên minh này là nhằm tạo ra một đối thủ ngang tầm với Trung Quốc ở Đông Nam Á và lợi dụng các nước này phục vụ lợi ích riêng của mình.

Tuy nhiên, gần đây Bắc Kinh đã nhận thức rõ một thực tế là chính sách bành trướng của họ tại Biển Đông đang làm ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ của Trung Quốc với các nước ASEAN và làm tổn hại đến hình ảnh của họ trên trường quốc tế. Do đó, Trung Quốc đã thay đổi phần nào chiến thuật, cố gắng tránh đụng độ ở Biển Đông và bắt đầu thể hiện thiện chí sẵn sàng thỏa thuận trong các cuộc đàm phán để xây dựng Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Cuộc họp các quan chức cấp cao ASEAN và Trung Quốc được tổ chức trong tháng 08.2018 là một minh chứng cho chiến thuật mới này. Nhưng ngay cả khi thay đổi chiến thuật, Trung Quốc cũng không bao giờ từ bỏ các biện pháp để áp đặt các yêu sách chủ quyền của mình và tham vọng kiểm soát hoàn toàn Biển Đông. Trung Quốc sẽ tìm mọi cách hủy bỏ phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực quốc tế về Luật Biển (PCA) về vụ kiện Trung Quốc của Philippines liên quan đến chủ quyền ở Biển Đông; tiếp tục phớt lờ phán quyết này; sử dụng ảnh hưởng chính trị, ngoại giao và kinh tế để lôi kéo và thuyết phục các nước không ủng hộ phán quyết của PCA. Tuy nhiên, những nỗ lực của Trung Quốc hầu như không mang lại kết quả đáng kể. Các nước ASEAN tiếp tục ủng hộ việc thực hiện phán quyết của PCA, ủng hộ giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Trong bối cảnh Biển Đông hiện nay chưa có điều gì để bảo đảm chắc chắn là “lặng gió”, theo Giáo sư Dmitry Mosyakov, để tránh gây ra nguy cơ bất ổn cho an ninh ở Biển Đông, để “cùng phát triển và cùng thắng” như lời tuyên truyền của Bắc Kinh, hướng giải quyết hợp lý nhất của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông là Trung Quốc phải thay đổi chính sách, thực tâm hợp tác với các nước láng giềng trên cơ sở lợi ích hợp pháp của các bên, tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982. Đây là hướng đi đúng đắn, đáng tin cậy và hợp pháp nhất hiện nay để Biển Đông không tiếp tục “dậy sóng”, các nước lớn bên ngoài khu vực không có cớ để can dự, gây bất ổn đối với khu vực.

RELATED ARTICLES

Tin mới