Friday, May 3, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaDự báo về diễn biến tình hình khu vực châu Á -...

Dự báo về diễn biến tình hình khu vực châu Á – Thái Bình Dương năm 2020

Những năm gần đây, Mỹ xoay trục sang châu Á, nhằm tìm kiếm lợi ích, liên kết với các đồng minh trong khu vực kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Để đối phó với Mỹ và đồng minh, Bắc Kinh cũng đã triển khai nhiều biện pháp đáp trả. Điều này khiến diễn biến tình hình khu vực trở nên căng thẳng và có nhiều diễn biến phức tạp.

Trong năm 2020, diễn biến tình hình khu vực châu Á – Thái Bình Dương bị chi phối, tác động từ nhiều điểm nóng, trong đó nổi lên một số vấn đề như cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung, tình hình bán đảo Triều Tiên, vấn đề Biển Đông, diễn biến tình hình eo biển Đài Loan…

Về cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung

Khu vực châu Á – Thái Bình Dương với dân số lớn nhất thế giới, đang trở thành khu vực phát triển năng động, có vị trí địa – chính trị, địa – kinh tế, an ninh quan trọng trên toàn cầu. Vì vậy, sự cạnh tranh, điều chỉnh chiến lược, gia tăng sự tập hợp lực lượng giữa các nước lớn, nhất là Trung Quốc và Mỹ tại khu vực khiến hình thái cạnh tranh, hợp tác giữa các nước này ngày càng quyết liệt hơn. Tuy Mỹ và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận giai đoạn 1 nhằm từng bước giải quyết mâu thuẫn về thương mại, song dưới sức ép liên tiếp của cuộc chiến thương mại với Mỹ, nền kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn, đặc biệt trong các lĩnh vực xuất khẩu và đầu tư.

Để vượt qua được giai đoạn này, trong năm 2020, Chính phủ Trung Quốc sẽ: Tiếp tục duy trì các kênh thương mại với Mỹ bằng cách đề nghị mua thêm hàng hóa từ Mỹ, giảm bớt các rào cản, tăng cường đầu tư có chọn lọc; Đáp trả một cách tượng trưng nếu Mỹ áp đặt các lệnh trừng phạt mới đối với các công ty và doanh nghiệp Trung Quốc. Những nhượng bộ của Trung Quốc sẽ khó đáp ứng được yêu cầu của Mỹ đối với cải cách kinh tế cấu trúc; Kiềm chế trừng phạt bừa bãi đối với các doanh nghiệp Mỹ; Tăng cường cải cách khu vực công; Nỗ lực mở rộng đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực: tài chính, ô tô và năng lượng; giảm bớt ràng buộc trong một số lĩnh vực, trước hết là dịch vụ y tế và giáo dục; Tìm cách có được những công nghệ mới nhờ mở rộng hợp tác với các quốc gia công nghệ tiên tiến như Nhật Bản, Israel và các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU).

Tuy nhiên, những hoạt động này sẽ gặp nhiều khó khăn do tiềm ẩn những lo ngại về mục đích đầu tư, khủng hoảng lòng tin và hoạt động gián điệp trong lĩnh vực công nghệ của Trung Quốc. Do cuộc chiến thương mại với Mỹ, các công ty công nghệ của Trung Quốc tham gia vào thị trường kinh tế hải ngoại cũng ngày càng bị hạn chế hoạt động. Chẳng hạn, lấy lý do xem xét vấn đề an ninh quốc gia, các nước Mỹ, Australia, Ấn Độ, Nhật Bản…sẽ tiếp tục tìm cách loại bỏ các nguy cơ từ công nghệ 5G của Tập đoàn công nghệ Huawei.

Theo dự báo, cuộc chiến thương mại sẽ còn kéo dài, tiếp tục tác động tiêu cực đến nền kinh tế Trung Quốc, do đó, Chính phủ Trung Quốc thời gian tới sẽ: Nới lỏng các yêu cầu pháp lý cứng rắn trước đó để giảm nợ và bảo vệ môi trường; Đẩy mạnh hiện đại hóa cơ sở hạ tầng; Phát hành các khoản vay và cung cấp các khoản trợ cấp trực tiếp để kích thích tăng trưởng kinh tế trong nước; Điều tiết hiệu quả tỷ giá hối đoái của đồng NDT để không gây tổn thất đến ngành xuất khẩu; cho phép đối phó với xu hướng giảm phát. Trung Quốc sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào các biện pháp kích thích tài khóa, bao gồm cắt giảm thuế, tăng tiêu dùng và tăng hoạt động của khu vực tư nhân; Ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương như Hiệp định đối tác kinh tế khu vực toàn diện ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương và tiến hành đàm phán 3 bên với Nhật Bản và Hàn Quốc. Đồng thời, mở rộng liên kết tại các thị trường xuất khẩu mới dọc theo BRI từ châu Á sang châu Phi và châu Âu.

Về tình hình bán đảo Triều Tiên

Mỹ sẽ tiếp tục thúc đẩy cuộc gặp lần 3 với Chủ tịch Triều Tiên để tìm kiếm điểm cộng trước cuộc bầu cử Tổng thống năm 2020. Trong khi đó, Bình Nhưỡng sẽ tiếp tục thử vũ khí mới để thăm dò phản ứng của Mỹ, để ngỏ cơ hội gặp gỡ Tổng thống D. Trump và tập trung ổn định tình hình kinh tế nội địa.

Để tránh những thiệt hại, các bên liên quan sẽ không từ bỏ biện pháp đối thoại hòa bình. Thời gian tới, Triều Tiên sẽ thận trọng khi đưa ra những lời hứa, đồng thời tính đến việc đề nghị phía Mỹ nới lỏng các lệnh trừng phạt và tiến tới ký kết một hiệp ước hòa bình. Trong khi đó, Mỹ dường như không muốn dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt Triều Tiên, quyền phủ quyết của Mỹ trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc sẽ cho phép nước này ngăn chặn mọi nỗ lực dỡ bỏ các lệnh trừng phạt mặc dù Trung Quốc và Nga vẫn tích cực kêu gọi sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế cho việc này. Đồng thời, Mỹ sẽ gây áp lực lên các quốc gia khác, yêu cầu họ phối hợp thống nhất về vấn đề trừng phạt, lên án và đe dọa trừng phạt thứ cấp đối với những nước quyết định hợp tác với Bình Nhưỡng.

Tình hình bán đảo Triều Tiên tiếp tục phức tạp bởi thực tế: Quan hệ liên Triều đã đạt được những động thái nồng ấm trong thời gian gần đây và có thể phát triển hơn nữa tiến tới thúc đẩy dỡ bỏ. Song, Mỹ sẽ làm việc này chỉ khi đã nghiên cứu kỹ và dự báo chính xác về tình hình liên Triều. Trong khi đó, tiến trình đối thoại và đàm phán giữa hai miền Triều Tiên sẽ cho phép Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng tại đây.

Về tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông

Khu vực Biển Đông tiếp tục được coi là một trong những “điểm nóng” hàng đầu ở châu Á. Cùng với việc Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động thăm dò, khảo sát trái phép trong Vùng đặc quyền kinh tế của các nước ven Biển Đông; gia tăng tần suất, quy mô các cuộc tập trận trên biển; sử dụng lực lượng chấp pháp và bán chấp pháp đâm va, cướp tài sản của ngư dân các nước trên Biển Đông; điều lực lượng hải quân, không quân và tên lửa tiến hành tập trận phi pháp tại Biển Đông; triển khai trái phép các loại trang thiết bị vũ khí tới các đảo, đá chiếm đóng trái phép ở Hoàng Sa và Trường Sa… khiến các nước trong khu vực phải gia tăng năng lực chấp pháp, đẩy mạnh hoạt động tuần tra bảo vệ chủ quyền lãnh thổ lãnh hải.

Trong khi đó, việc Mỹ can dự vào vấn đề Biển Đông không đơn thuần xuất phát quan tâm đến hòa bình và ổn định ở khu vực Biển Đông, mà chủ yếu là xuất phát từ toan tính tổng thể về địa chiến lược châu Á- Thái Bình Dương của Mỹ, nhằm phục vụ cho chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của nước này. Theo quan điểm của Mỹ, trong thời gian tới Trung Quốc sẽ là lực lượng chính làm thay đổi kết cấu địa chiến lược châu Á – Thái Bình Dương, do vậy, việc đề phòng và ngăn chặn Trung Quốc là một mục tiêu quan trọng trong chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ. Mỹ tích cực can dự vào vấn đề Biển Đông là để phục vụ cho mục tiêu này. Trước khi mục tiêu nói trên bị thất bại hoặc không thể khả thi, ít khả năng Mỹ thay đổi cách tiếp cận này đối với vấn đề Biển Đông. Mỹ sẽ tiếp tục tăng cường sự hiện diện quân sự ở Biển Đông và các khu vực lân cận, đẩy mạnh quan hệ kinh tế và quân sự với các nước Đông Nam Á.

Trong năm 2020, Mỹ sẽ tiếp tục quan tâm và can dự vào vấn đề Biển Đông, nhưng đồng thời cũng phải thấy được giới hạn và trở ngại mà Mỹ phải đối mặt khi can dự vào khu vực này. Giới hạn và trở ngại trước hết đến từ tình hình thực tế của bản thân nước Mỹ, vai trò của ASEAN, và ảnh hưởng của Trung Quốc. Vị thế của Mỹ ở Biển Đông đứng trước nhiều thách thức. Thứ hai, do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính cùng với hệ lụy của các cuộc chiến tranh Afghanistan và Irắc sức mạnh tương đối của Mỹ sụt giảm. Xu thế suy thoái của Mỹ đã rõ, chiến lược toàn cầu của Mỹ bắt đầu thu hẹp. Thứ ba, xét từ bố cục chiến lược toàn cầu của Mỹ, Đông Nam Á cũng không phải là địa bàn chiến lược hàng đầu của Mỹ, hiện nay Mỹ can dự vào vấn đề Biển Đông một mặt tích cực hơn trước đây chủ yếu là nhằm đẩy mạnh điều chỉnh chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của mình. Mỹ sẽ không áp dụng biện pháp này đến mức vượt quá mục tiêu. Thứ tư, tuy Mỹ giữ cho khu vực Biển Đông căng thẳng ở mức độ vừa phải để duy trì lợi ích chiến lược của mình, nhưng cũng không muốn thấy khu vực này xảy ra chiến tranh, vì điều này sẽ ảnh hưởng đến an ninh của tuyến đường hàng hải thương mại và quân sự của Mỹ và tăng thêm tính phức tạp trong việc xử lý mối quan hệ với các nước đồng minh khu vực của họ. Còn đối với các nước ASEAN như Philippines, Indonesia mục tiêu là đẩy mạnh chiến lược cân bằng nước lớn, chứ không muốn khu vực này trở thành chiến trường để các nước lớn ngoài khu vực tranh giành lợi ích địa chính trị, cũng sẽ không muốn đi với Mỹ để chống lại Trung Quốc. Philippines đưa thế lực ngoài khu vực như Mỹ vào vấn đề Biển Đông nhằm cân bằng ảnh hưởng giữa Trung Quốc và Mỹ ở khu vực này. Nhằm tăng cường bảo vệ các đảo xa bờ, Philippines cho phép quân đội Mỹ sử dụng căn cứ quân sự phía Tây đảo Palawan. Động thái này xảy ra trong bối cảnh Trung Quốc tăng cường hoạt động để khẳng định những yêu sách đơn phương áp đặt trên Biển Đông.

Thực tế là Mỹ và Trung Quốc có rất nhiều lợi ích chung quan trọng, hai nước lệ thuộc lẫn nhau cao độ về mặt kinh tế nên sẽ tránh đối đầu toàn diện chỉ vì vấn đề Biển Đông. Vấn đề Biển Đông tuy quan trọng nhưng trong đại cục quan hệ Trung – Mỹ nhưng chỉ là thứ yếu so với lợi ích hợp tác thương mại toàn diện giữa hai nước. Mặc dù sự can dự của Mỹ làm phức tạp thêm tranh chấp, nhưng khả năng Mỹ và Trung Quốc xảy ra xung đột nghiêm trọng trong vấn đề Biển Đông không nhiều. Trong tương lai Mỹ tiếp tục can dự của Mỹ vào Biển Đông nhưng sẽ có giới hạn và mang tính lựa chọn. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của tự do đi lại trên biển đối với chiến lược toàn cầu của Mỹ, có thể dự báo, lập trường của Mỹ về vấn đề Biển Đông trong tương lai không thể mềm dẻo hơn. Theo đó, chính sách Biển Đông của Mỹ ngày càng có xu hướng cứng rắn hơn và mức độ can dự vào vấn đề Biển Đông ngày càng sâu hơn. Về khía cạnh ngoại giao, Chính quyền của Tổng thống Donald Trump sẽ tiếp tục kêu gọi tất cả các bên liên quan cần tôn trọng nguyên tắc và luật pháp quốc tế trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông; chủ động tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực, nhất là các nước tồn tại tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông; Tăng cường hợp tác với các nước, nhất là những nước đồng minh (Nhật Bản, Ấn Độ, Australia…) để can thiệp vào tình hình Biển Đông, qua đó bảo vệ lợi ích của đồng minh trong khu vực; thông qua các kênh khác nhau góp phần thúc đẩy quốc tế hóa tranh chấp ở Biển Đông. Về khía cạnh quân sự, Mỹ sẽ thúc đẩy các cuộc diễn tập quân sự tại khu vực mang tính thường niên, với quy mô ngày càng lớn hơn; gia tăng bố trí lực lượng hải quân tại khu vực; Đẩy mạnh về tần suất và quy mô của các hoạt động tuần tra đảm bảo tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông. Về khía cạnh hợp tác kinh tế và thương mại, Mỹ sẽ thể hiện sự ủng hộ và có biện pháp thiết thực bảo vệ các công ty dầu mỏ (của Mỹ) hợp tác khai thác dầu khí với tất cả các bên tranh chấp ở Biển Đông; thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại và năng lượng với các nước ASEAN để tăng cường ảnh hưởng dối với những nước này.

Trong khi đó, trong năm 2020, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh các hoạt động thăm dò, khảo sát trái phép trong Vùng đặc quyền kinh tế của các nước ven Biển Đông; gia tăng tần suất, quy mô các cuộc tập trận trên biển; chủ động hơn trong các hoạt động đối ngoại, tuyên truyền và quân sự ở Biển Đông; thúc đẩy tiến trình đàm phán COC. Tuy nhiên, Trung Quốc sẽ vẫn duy trì chính sách cứng rắn trong yêu sách chủ quyền và ngăn chặn các nước lớn can dự vào vấn đề Biển Đông.

Theo đó, Trung Quốc sẽ tiếp tục duy trì chính sách hiện nay trong vấn đề Biển Đông, song sẽ chủ động giảm các hoạt động quân sự hóa phi pháp trên các đảo nhân tạo và đẩy mạnh các hoạt động tuần tra, tập trận, thăm dò khai thác tài nguyên ở Biển Đông. Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện chính sách “mập mờ” về yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, không đưa ra các giải thích cụ thể, làm rõ bản chất, nội dung và phạm vi liên quan yêu sách “đường chín đoạn” và “quyền lịch sử”; sử dụng “các đảo khác nhau ở Biển Đông” để né tránh lập trường công khai về quy chế pháp lý của nhóm hoặc từng thực thể ở Trường Sa; cụ thể hóa nguyên tắc “đất thống trị biển”, lấy các đảo ở Biển Đông là cơ sở chính để yêu sách nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa căn cứ từ các đảo ở Biển Đông. Việc tách biệt giữa yêu sách “nội thủy, lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải” với yêu sách “vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa” quy thuộc cho “các đảo ở Biển Đông” để ngỏ khả năng diễn giải rằng thực thể có thể có quy chế pháp lý khác nhau. Trung Quốc cũng sẽ điều chỉnh chính sách đối ngoại mang tính “hòa dịu” hơn với các nước liên quan tranh chấp ở Biển Đông; chủ động triển khai nhiều hoạt động tuyên truyền, ngoại giao để hạn chế tác động của phán quyết của Tòa trọng tài, đồng thời ngăn chặn sự can thiệp của các cường quốc bên ngoài; tiếp tục sử dụng chiến thuật “chia để trị”, vận động các nước thân Trung Quốc trong khi hăm dọa các nước liên quan đến tranh chấp để ngăn chặn việc hình thành mặt trận chung chống lại Trung Quốc; tiếp tục tăng cường đối thoại và can dự với các nước liên quan trực tiếp đến tranh chấp Biển Đông; tiến hành tham vấn song phương lần thứ 6 và hợp tác chung với Philippines ở Biển Đông; tăng cường sử dụng “ngoại giao tiền tệ” để mua chuộc, lôi kéo các nước liên quan tranh chấp ở Biển Đông như Malaysia, Lào, Campuchia; tìm cách vận động các nước ủng hộ lập trường của Trung Quốc, ngăn cản các nước khác công khai ủng hộ phán quyết và phê phán của Trung Quốc. Tuy nhiên, trong những tình huống cụ thể, Trung Quốc cũng sẽ răn đe các nước liên quan, chặn các diễn đàn đa phương đề cập đến vấn đề Biển Đông, đặc biệt là tại các diễn đàn đa phương do Trung Quốc hậu thuẫn hoặc chịu tác động, ảnh hưởng lớn từ Trung Quốc. Trung Quốc cũng sẽ tích cực và chủ động hơn trong việc thúc đẩy đàm phán COC với các nước ASEAN nhằm tạo dựng “uy tín và niềm tin” đối với các nước ASEAN về nỗ lực và quyết tâm của Trung Quốc trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông. Ngoài ra, Trung Quốc sẽ chủ động thúc đẩy cơ chế hợp tác giữa các bên tranh chấp trực tiếp ở Biển Đông, nhằm mục tiêu tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác và chia sẻ lợi ích trong các lĩnh vực như phòng chống và hạn chế thiên tai, tìm kiếm cứu nạn trên biển, bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học, nghiên cứu khoa học và an toàn hàng hải. Không những vậy, Trung Quốc sẽ chủ động lồng ghép vấn đề hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật biển với các chiến lược lớn như “Một vành đai, Một con đường” nhằm “làm dịu” căng thẳng, “mềm hoá” tranh chấp, tránh tạo ra cớ các nước lớn khác can dự. Trung Quốc cũng tranh thủ quá trình mở rộng kết nối hạ tầng của các tỉnh ven biển với bên ngoài, kết hợp với các văn bản nội luật, quy hoạch phát triển mới nhằm từng bước hợp thức hoá cơ sở hạ tầng tại khu vực chiếm đóng trái phép. Song thái độ mềm dịu của Trung Quốc chỉ là tạm thời và phụ thuộc vào tình hình chính trị nội bộ và nhu cầu đối ngoại của Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc sẽ tiếp tục củng cố sức mạnh toàn diện, tăng cường khả năng kiểm soát trên thực địa, hoàn thành quá trình quân sự hóa ở Biển Đông; tập trung mọi nguồn lực để phát triển hải quân, lực lượng chấp pháp trên biển; tích cực nghiên cứu, chế tạo và biên chế thêm nhiều loại khí tài quan trọng cho Hải quân, Cảnh sát biển, Ngư chính, Kiểm ngư; tăng cường các hoạt động tuần tra, kiểm soát ở Biển Đông; tiếp tục củng cố chứng cứ pháp lý, ngụy tạo bằng chứng về cái gọi là chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Ngoài ra, Trung Quốc cũng sẽ tiếp tục áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá phi pháp hàng năm, tích cực điều lực lượng chấp pháp trên biển ngăn chặn, bắt giữ ngư dân các nước ở Biển Đông. Trong lĩnh vực thăm dò, khai thác tài nguyên ở Biển Đông, Trung Quốc sẽ gia tăng các hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên ở các vùng biển trong phạm vi “đường 9 đoạn”, nhất là thúc đẩy quá trình thăm dò, khai thác băng cháy; tìm cách ngăn chặn các nước, nhất là Việt Nam hợp tác khai thác dầu khí với nước ngoài. Không loại trừ khả năng Bắc Kinh sẽ điều các giàn khoan thăm dò dầu khí như Hải Dương 981, Hải Dương 982… vào sâu trong thềm lục địa của Việt Nam. Ngoài ra, Trung Quốc cũng sẽ tăng cường hoạt động nghiên cứu, chế tạo trang thiết bị phục vụ hoạt động thăm do, khai thác tài nguyên ở vùng biển sâu.

Về diễn biến tình hình eo biển Đài Loan

Trong năm 2019, tình hình căng thẳng tại eo biển Đài Loan gia tăng nhanh chóng. Ngay từ đầu năm, Chính quyền Tập Cận Bình gia tăng sức ép vế kinh tế, chính trị, quân sự để buộc Đài Loan chấp nhận thống nhất với Trung Quốc. Trong khi đó, Đài Bắc một mặt tăng cường năng lực quốc phòng như đầu tư mua sắm trang thiết bị vũ khí, tiến hành tập trận để đề phóng Bắc Kinh, mặt khác củng cố quan hệ hợp tác với Mỹ. Để thể hiện sự ủng hộ đối với Đài Loan, Mỹ và một số nước đồng minh liên tục điều tàu chiến qua eo biển Đài Loan, đưa ra các tuyên bố ủng hộ Đài Loan chống lại việc Trung Quốc lôi kéo, cô lập trên diễn đàn quốc tế. Theo Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ, “chiến dịch tích cực của Trung Quốc nhằm thay đổi hiện trạng ở hai bên eo biển, bao gồm cả việc lôi kéo các quốc gia cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Loan, là có hại và làm xói mòn sự ổn định khu vực”; đồng thời nhấn mạnh “Trung Quốc đang hủy hoại khuôn khổ giúp duy trì hòa bình, ổn định và phát triển suốt nhiều thập kỷ”. Ngoài ra, về quân sự, Mỹ (20/8/2019) thông báo đã phê chuẩn bản hợp đồng bán 66 chiếc tiêm kích F-16V, 75 động cơ và trang thiết bị đi kèm trị giá 8 tỷ USD cho Đài Loan. Đây cũng chính là bản hợp đồng có trị giá lớn nhất của Đài Loan trong hơn một thập kỷ qua. Điều này khiến Trung Quốc “không hài lòng” và giới chức cấp cao của Bắc Kinh đã đưa ra những tuyên bố cứng rắn, cảnh cáo sẽ thống nhất với Đài Loan bằng bất cứ biện pháp nào.

Ngay đầu năm 2020, với việc giành chiến thắng áp đảo trong cuộc bầu cử Tổng thống Đài Loan, bà Thái Anh Văn sẽ tiếp tục đảm nhiệm chức vụ Tổng thống Đài Loan trong nhiệm kỳ thứ hai. Điều này sẽ khiến tình hình eo biển Đài Loan và quan hệ Trung – Đài trở nên căng thẳng, dễ mất kiểm soát. Giới chức Trung Quốc liên tục đưa ra các tuyên bố đe dọa, cảnh báo sẽ sử dụng vũ lực giải quyết vấn đề Đài Loan trong trường hợp cần thiết. Theo đó, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung Quốc Uông Dương (19/01) cho biết: “Tình hình tại eo biển Đài Loan sẽ phức tạp và nghiệt ngã hơn. Chúng ta phải duy trì nguyên tắc Một Trung Quốc và kiên quyết phản đối, ngăn chặn các hoạt động đòi độc lập của Đài Loan dưới mọi hình thức”. Ông Uông Dương khẳng định, Trung Quốc vẫn ủng hộ việc “thống nhất” đảo Đài Loan một cách hòa bình nhưng phải theo mô hình “Một quốc gia, hai chế độ” và Bắc Kinh sẽ nỗ lực nhiều hơn để thúc đẩy trao đổi qua eo biển, tăng cường phát triển chung và bảo đảm sự thịnh vượng của Đài Loan; nhấn mạnh Bắc Kinh sẽ đưa ra những điều kiện tốt hơn để thu hút thanh niên Đài Loan đến học tập và làm việc tại Trung Quốc đại lục. Trước đó, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (13/1) cũng đã đưa ra một phát ngôn cứng rắn sau khi bà Thái Anh Văn tái đắc cử lãnh đạo Đài Loan, đồng thời nhấn mạnh rằng không thay đổi quan điểm về “Một Trung Quốc”. Theo ông Vương Nghị, “những kẻ ly khai sẽ phải chịu số phận diệt vong và để lại mùi hôi thối bốc lên trong một vạn năm”; đồng thời tiếp tục khẳng định rằng, nguyên tắc “Một Trung Quốc” từ lâu đã công nhận Đài Loan là một phần của Trung Quốc đại lục và nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Sự đồng thuận về nguyên tắc “Một Trung Quốc” vẫn sẽ không thể bị thay đổi một chút nào chỉ vì một cuộc bầu cử địa phương tại Đài Loan, và sẽ không thể bị lung lay vì những phát ngôn và hành động sai lầm của một số chính trị gia phương Tây. Bộ Ngoại giao Trung Quốc (12/1) cũng đã tuyên bố nhấn mạnh “dù có chuyện gì thay đổi với tình hình nội bộ ở Đài Loan thì thực tế cơ bản rằng chỉ có một nước Trung Quốc trên thế giới và Đài Loan là một phần của Trung Quốc sẽ không thay đổi”; tái khẳng định “sự đồng thuận phổ quát của cộng đồng quốc tế tôn trọng nguyên tắc ‘Một Trung Quốc’ cũng sẽ không thay đổi”. Bắc Kinh hy vọng thế giới ủng hộ người dân Trung Quốc phản đối các hoạt động ly khai và “hiện thực hóa việc thống nhất đất nước”.

RELATED ARTICLES

Tin mới