Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm các đảo, đá của Việt Nam trên Biển Đông; đưa tàu khảo sát vào hoạt động trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế; đâm, va, cướp tài sản của tàu cá và ngư dân Việt Nam… là những dẫn chứng cụ thể, củng cố hồ sơ pháp lý để Việt Nam kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài quốc tế về tranh chấp trên Biển Đông. Tuy nhiên, đây sẽ là một trong những quyết định khó khăn, cần phải cân nhắc nhiều vấn đề như thời điểm, chọn lựa loại hình Tòa trọng tại, quan hệ song phương…
Quyết tâm lớn
Trước việc Trung Quốc liên tục gia tăng các hoạt động phi pháp ở Biển Đông, tiến hành các hoạt động thăm dò, khảo sát địa chất, dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cũng như đưa lực lượng chấp pháp vào hoạt động trái phép trong vùng biển Việt Nam, ngăn chặn, đâm, va, cướp tài sản của ngư dân Việt Nam… khiến nhiều người đưa ra đề xuất kiện Trung Quốc ra các cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết vấn đề trên biển.
Tại phiên họp Quốc hội (30/10/2019), Đại biểu Quốc hội Nguyễn Lân Hiếu cho rằng các phương pháp Việt Nam sử dụng trong thời gian vừa qua với phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiên quyết, kiên trì xử lý các hành vi xâm phạm chủ quyền bằng các biện pháp hòa bình không làm giảm đi lòng tham của Trung Quốc. Theo ông Nguyễn Lân Hiếu, nói đến việc khai thác cạn kiệt tài nguyên môi trường, tàn phá môi trường không thể không nhắc Trung Quốc. Khi họ khai thác cạn kiệt tài nguyên từ biển của họ, họ sẽ vươn sang các vùng biển lân cận và thậm chí xa hơn trên Biển Đông; đồng thời cho rằng Trung Quốc đã chuyển từ giai đoạn xây dựng bồi đắp (các đảo ngoài Biển Đông) sang giai đoạn quân sự hóa và khai thác, sử dụng. Do đó, Việt Nam cần công khai cập nhật chi tiết các hoạt động lấn chiếm biển đảo, vi phạm luật pháp quốc tế của họ để dư luận tiến bộ Việt Nam và trên toàn thế giới, bao gồm cả nhân dân Trung Quốc được biết. Ông Nguyễn Lân Hiếu cho rằng Việt Nam cần có thêm những biện pháp mới theo nguyên tắc mà Chủ tịch nước đã khẳng định bất di bất dịch là không bao giờ nhân nhượng với những gì thuộc về độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; cho hay rất nhiều ý kiến cử tri đã đề nghị đưa vụ việc ra tòa án quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta không chỉ kiện Trung Quốc về việc xâm phạm bãi Tư Chính mà chúng ta sẽ đưa toàn bộ các hoạt động của Trung Quốc vi phạm chủ quyền Việt Nam, xây dựng trái phép, quân sự hóa nhiều đảo, bãi đá Biển Đông trong suốt thời gian qua. Khi có chính nghĩa dư luận quốc tế và ngay bản thân nhân dân Trung Quốc sẽ hiểu sự phi lý của chính quyền Trung Quốc. Không chính phủ nào có thể phớt lờ lẽ phải hiển nhiên được cộng đồng quốc tế công nhận.
Phát biểu tại Hội thảo Biển Đông lần thứ 11, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung (6/11/2019) cho rằng hợp tác trên biển, trong đó có Biển Đông “cần có lòng tin vào môi trường luật pháp quốc tế, vào các cơ chế và thể chế chung”. Việc đơn phương diễn giải luật quốc tế trái với chuẩn mực chung và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, làm giảm lòng tin vào luật pháp quốc tế, làm xói mòn thượng tôn pháp luật. Việc này có thể trở thành tiền lệ nguy hiểm đe doạ hoà bình, ổn định hoà bình, an ninh ở khu vực và quốc tế. Ông Lê Hoài Trung nhấn mạnh để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông có nhiều biện pháp bao gồm tìm kiếm sự thật, trung gian hòa giải, đàm phán, trọng tài và kiện. Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Công ước về luật biển của Liên Hiệp quốc 1982 (UNCLOS 1982) có đủ các cơ chế cho chúng tôi áp dụng những biện pháp này. Tuy nhiên, trong nhiều biện pháp để giải quyết tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam không loại trừ khả năng tiến hành các hành động pháp lý.
Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra cơ quan tài phán nào
Để giải quyết tranh chấp liên quan đến chủ quyền biển đảo, đặc biệt đối với giải quyết tranh chấp trên Biển Đông hiện nay, các bên liên quan có thể sử dụng các thiết chế cơ bản như Toà án Công lý quốc tế, Toà án quốc tế về Luật biển, Tòa trọng tài thường trực La Haye, Tòa trọng tài và Toà trọng tài đặc biệt được thành lập theo UNCLOS, Tòa án Hình sự Quốc tế. Tuy nhiên để bảo vệ quyền lợi của quốc gia, đặc biệt với chính sách “hai không” của Trung Quốc, đòi hỏi Việt Nam phải cân nhắc một cách kỹ lưỡng tính khả thi và hiệu quả của thiết chế tài phán quốc tế mà mình sử dụng.
Toà án Công lý quốc tế (ICJ): ICJ là một trong các cơ quan chính của Liên hợp quốc, được thành lập và hoạt động theo Quy chế toà án quốc tế. ICJ có hai chức năng chủ yếu là giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia và đưa ra kết luận tư vấn về pháp lý cho các cơ quan của Liên hợp quốc. Cơ sở thẩm quyền giải quyết tranh chấp của ICJ dựa trên hai điều kiện bắt buộc, đó là: (1) quốc gia trong tranh chấp phải là thành viên của Quy chế Tòa hoặc nếu không là thành viên thì phải có Tuyên bố chấp nhận Quy chế Toà và (2) sự đồng ý rõ ràng của quốc gia. Phán quyết của ICJ mang tính bắt buộc và có hiệu lực thi hành đối với các bên tranh chấp. Đồng thời Hiến chương Liên hợp quốc cũng quy định những biện pháp đảm bảo phán quyết của Toà án sẽ được thực thi, cụ thể: một bên có quyền yêu cầu Hội đồng Bảo an kiến nghị hoặc đưa ra những quyết định trong trường hợp một trong các bên tranh chấp không chịu thi hành bản án. Như vậy, ICJ được xem là một cơ chế hữu hiệu để giải quyết các tranh chấp quốc tế khi các cơ chế hoà giải khác bị thất bại. Nhưng hiện nay, theo nguyên tắc hoạt động của ICJ như đã phân tích ở trên, việc giải quyết các tranh chấp chủ quyền biển, đảo nói chung, các tranh chấp tại biển Đông liên quan đến Việt Nam nói riêng thông qua cơ quan này là một điều hết sức khó khăn và khó mang tính khả thi. Bởi lẽ, việc “thuyết phục” Trung Quốc chấp nhận thoả thuận đưa tranh chấp liên quan đến yêu sách của mình ra giải quyết tại ICJ trên thực tế hoàn toàn là điều không tưởng; và triển vọng về một trong số các quốc gia liên quan kiện Trung Quốc lên ICJ với một yêu cầu đơn phương và hưởng thụ thẩm quyền của Tòa án này cũng đã bị loại trừ. Hoặc giả sử, nếu tranh chấp trên được thụ lý giải quyết bằng phán quyết của ICJ để đánh giá vấn đề một cách toàn diện, thì liệu Trung Quốc có sẵn sàng thừa nhận kết quả giải quyết của Tòa, sẵn sàng thiện chí thực hiện theo phán quyết mà chắc chắn sẽ bất lợi đối với mình? Các bên liên quan có thể tiếp tục yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc xử lý theo quy định tại Điều 92.2 Hiến chương Liên hợp quốc khi một bên (như Trung Quốc) từ chối thi hành phán quyết của Tòa? Trong trường hợp này, mặc dù Trung Quốc không được bỏ phiếu, nhưng liệu Trung Quốc có “ngần ngại” vận động các thành viên thường trực khác dùng quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an để “dập tắt” vụ việc hay không? Đó là những vấn đề chúng ta cần cân nhắc kỹ lưỡng khi xem xét việc lựa chọn thiết chế giải quyết tranh chấp là ICJ.
Tòa trọng tài thường trực La Haye (PCA): PCA là một trong những thiết chế mà Việt Nam có thể xem xét lựa chọn để kiện các yêu sách/hành vi của Trung Quốc. Nhưng xét về mặt bản chất, PCA là thiết chế giải quyết tranh chấp hoàn toàn dựa trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên có liên quan thông qua việc ký Thỏa thuận trọng tài. Vì vậy, để đưa tranh chấp này ra giải quyết trước PCA bắt buộc giữa Việt Nam và các nước có liên quan trước tiên phải có thỏa thuận lựa chọn, trao thẩm quyền giải quyết cho PCA. Nhưng cũng sẽ giống như thủ tục đầu tiên của quá trình giải quyết tranh chấp tại ICJ hay ITLOS, chúng ta sẽ vướng ngay phải trở ngại trên vì một bên tranh chấp chính là Trung Quốc. Hơn nữa, PCA cũng chưa có cơ chế đảm bảo thực thi phán quyết giải quyết tranh chấp của mình một cách hiệu quả. Do vậy, PCA sẽ chỉ là thiết chế tài phán cuối cùng Việt Nam có thể xét đến để áp dụng giải quyết tranh chấp với Trung Quốc trong bối cảnh hiện tại mà thôi.
Toà án quốc tế về Luật biển (ITLOS): Là một trong những cơ quan giải quyết tranh chấp được thành lập và hoạt động trong khuôn khổ của UNCLOS, ITLOS có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS: (i) giữa các quốc gia tuyên bố bằng văn bản lựa chọn Tòa. Thẩm quyền này được xác định từ trước khi xảy ra tranh chấp. Do vậy, khi tranh chấp xảy ra, một bên liên quan và đã có tuyên bố bằng văn bản lựa chọn Tòa có quyền đơn phương kiện bên tranh chấp với mình ra Tòa với điều kiện bên tranh chấp này cũng đã có tuyên bố bằng văn bản chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa; (ii) giữa các quốc gia tranh chấp có cùng thỏa thuận lựa chọn ITLOS bằng một thỏa thuận song phương hoặc đa phương; (iii) ngoài ra, trong trường hợp nếu được sự thoả thuận của tất cả các bên trong một hiệp ước hay một công ước đã có hiệu lực có quan hệ đến một vấn đề do UNCLOS đề cập, thì bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng hiệp ước hoặc công ước đó cũng có thể được đưa ra ITLOS theo đúng như điều đã thoả thuận.
Tuy nhiên, Công ước lại cho phép các quốc gia khi ký kết, phê chuẩn hay tham gia Công ước, hoặc ở vào bất kỳ thời điểm nào sau đó, có thể tuyên bố bằng văn bản về việc mình không chấp nhận ITLOS (hoặc các Tòa trọng tài hay ICJ) có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển (bao gồm hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa các quốc gia có đường bờ biển kề nhau hay đối diện nhau) hay các vụ tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử; đồng thời, nếu không có sự thỏa thuận của các quốc gia, ITLOS cũng như các Tòa khác không thể xem xét một vụ tranh chấp nào liên quan đến chủ quyền và các quyền khác trên một lãnh thổ đất liền hay đảo.
Trên thực tế, với Tuyên bố năm 2006 bảo lưu Điều 298 UNCLOS, Trung Quốc đã loại trừ hầu hết các loại tranh chấp trên Biển Đông (trong đó có tranh chấp liên quan đến chủ quyền các đảo) ra khỏi quyền tài phán của một cơ quan tài phán quốc tế. Do vậy, vào thời điểm hiện tại, Việt Nam hay các bên có liên quan sẽ rất khó khăn trong việc đưa yêu sách của Trung Quốc ra ITLOS bởi Trung Quốc đương nhiên từ chối đưa vụ việc ra trước ITLOS, không muốn bất kỳ một bên thứ ba nào can thiệp giải quyết “những vấn đề của Trung Quốc” và các nước liên quan trong tranh chấp biển Đông cũng chưa có tuyên bố bằng văn bản lựa chọn ITLOS để giải quyết các tranh chấp liên quan đến giải thích và áp dụng UNCLOS. Hơn nữa, “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc yêu sách ôm gần trọn diện tích Biển Đông, bao trùm lên các đảo, nhóm đảo mà nhiều quốc gia cùng tuyên bố chủ quyền nên ITLOS sẽ không có thẩm quyền trong trường hợp này (các tranh chấp có liên quan đến chủ quyền đối với các đảo). Có thể nói, khả năng sử dụng ITLOS cũng như các cơ quan tài phán quốc tế khác phụ thuộc chính vào thiện chí của các bên tranh chấp. Do vậy, với tình hình hiện nay Việt Nam có thể nghiên cứu khả năng vận động các nước ASEAN hay chí ít các nước trong tranh chấp có một thỏa thuận quốc tế vì hòa bình, ổn định ở biển Đông, phù hợp với các mục đích của UNCLOS, yêu cầu ITLOS cho ý kiến tư vấn về chế độ pháp lý của các đảo, đá ở quần đảo Trường Sa hay việc áp dụng Điều 121.3 của UNCLOS vào quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Toà trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS. Tòa trọng tài được thành lập theo phụ lục VII UNCLOS (sau đây gọi tắt là Toà trọng tài) sẽ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước (trừ những vụ kiện thuộc thẩm quyền của Toà trọng tài đặc biệt). UNCLOS quy định khi ký hay phê chuẩn hoặc tham gia Công ước, hay ở bất kỳ thời điểm nào sau đó, dưới hình thức tuyên bố bằng văn bản, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn một hay nhiều biện pháp sau để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước: Tòa án quốc tế về Luật biển được thành lập theo đúng Phụ lục VI; Toà án quốc tế; Tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII; Tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục VIII.
Cụ thể, trong trường hợp các bên tranh chấp đã chấp nhận cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo thủ tục đó, trừ khi các bên có thỏa thuận khác; trường hợp một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp không lựa chọn một biện pháp nào (không được một tuyên bố còn hiệu lực bảo vệ) thì được xem là đã chấp nhận thủ tục trọng tài trù định ở Phụ lục VII; trường hợp các bên tranh chấp không chấp nhận cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp, vụ tranh chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo thủ tục trọng tài đã được trù định ở Phụ lục VII, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Như vậy, Tòa trọng tài là cơ chế duy nhất mà một bên có thể đơn phương khởi kiện, không cần sự chấp thuận của bên còn lại.
Tòa trọng tài được thành lập và tự quy định thủ tục của mình bằng cách cho mỗi bên có khả năng bảo vệ các quyền và trình bày căn cứ của mình. Hơn nữa, khi một trong số các bên trong vụ tranh chấp không ra Toà hoặc không trình bày các lý lẽ của mình, bên kia có thể yêu cầu Toà tiếp tục trình tự tố tụng và ra phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên không trình bày các lý lẽ của mình không cản trở đến trình tự tố tụng. Bản án của Toà mang tính tối hậu, không được kháng cáo (trừ khi các bên trong vụ tranh chấp đã có thỏa thuận trước về một thủ tục kháng cáo) và có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý đối với các bên tranh chấp. Những tranh cãi có thể xảy ra giữa các bên liên quan đến việc giải thích hay cách thi hành bản án, đều có thể được một trong các bên đưa ra để Toà trọng tài đã tuyên án quyết định; hoặc có thể được đệ trình lên một Toà khác theo đúng Điều 287 nếu tất cả các bên trong vụ tranh chấp thoả thuận.
Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) là một tòa án thường trực để truy tố các cá nhân phạm tội ác diệt chủng, tội ác chống lại loài người, tội ác chiến tranh, và tội ác xâm lược (mặc dù nó không thể hiện và sẽ không có cách nào trước 2017 có thể thực thi quyền tài phán xét xử các tội phạm xâm lược). Đáng chú ý, ICC đã tuyên bố sẽ thụ lý các vụ án liên quan tới các tội ác hủy hoại môi trường, khai thác tài nguyên thiên nhiên phi pháp và trưng thu trái pháp luật đất đai của người dân. Với sự thay đổi đáng kể này, các nhà hoạt động và các luật sư cho biết trong các hợp đồng bàn giao đất trái phép dẫn tới việc phải dùng bạo lực di dời người dân, các giám đốc điều hành doanh nghiệp hoặc các chính trị gia có thể phải chịu trách nhiệm trước luật pháp quốc tế. Từ đó cho thấy, Việt Nam hoặc các tổ chức kinh tế của Việt Nam (Hội nghề cá, Công ty ngư nghiệp, ngư dân…) đều có thể khởi kiện Trung Quôc ra ICC về một số tội danh như tấn công tàu cá, cướp tài sản của ngư dân Việt Nam trên Biển Đông; sử dụng các biện pháp khai thác đánh bắt cá (phi pháp) ở Biển Đông với phương thức hủy diệt môi trường sinh thái; việc Trung Quốc cải tạo 7 bãi cạn, đảo đá (phi pháp) ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã tàn phá và hủy diệt môi trường sinh thái trong khu vực, gây nguy cơ diệt vong toàn bộ hệ sinh thái và các dải san hô ở Trường Sa. Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể tập hợp hồ sơ, khởi kiện Trung Quốc vi phạm tội ác chiến tranh khi sử dụng vũ lực thảm sản 64 cán bộ, chiến sỹ Việt Nam trên đá Gạc Ma (14/3/1988).
Thời gian qua, ngoài Việt Nam, đã có một số nước có ý định kiện Trung Quốc ra ICC. Theo Bộ trưởng An ninh Indonesia Luhut Panjaitan, Indonesia có thể cũng sẽ kiện Trung Quốc ra ICC nếu yêu sách “đường lưỡi bò” ngang ngược của Bắc Kinh đối với Biển Đông không được giải quyết thông qua đối thoại. Ông Panjaitan nhấn mạnh rằng Jakarta không muốn thấy bất kỳ động thái triển khai sức mạnh nào tại Biển Đông.
Tuy nhiên, để kiện Trung Quốc ra ICC sẽ gặp phải nhiều khó khăn và thách thức. Theo Quy chế Rome 1998, chỉ có bốn khả năng đưa một vụ án môi trường ra trước ICC: Vụ án xảy ra trên lãnh thổ của một trong các quốc gia thành viên của ICC; Nghi phạm có quốc tịch của một trong các quốc gia thành viên của ICC; Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc chuyển vụ việc sang ICC; Một quốc gia không phải thành viên của ICC chấp thuận thẩm quyền của ICC trong một vụ việc cụ thể. Vấn đề là, trong số 124 quốc gia thành viên của ICC hiện nay không có tên Việt Nam và Trung Quốc. Khả năng Hội đồng Bảo An Liên hợp quốc chuyển vụ việc sang ICC là rất thấp vì cơ quan này chỉ xử lý những vụ việc liên quan đến các xung đột hoặc nguy cơ dẫn đến xung đột quốc tế. Hơn nữa, nó đòi hỏi ít nhất 8/15 quốc gia thành viên hội đồng đồng ý, trong đó phải có đủ 5 thành viên thường trực (Mỹ, Anh, Pháp, Nga và Trung Quốc), và đường nhiên, Trung Quốc sẽ chẳng bao giờ đồng ý chuyển đơn kiện của Việt Nam qua ICC. Khả năng cuối cùng là chính phủ Việt Nam chấp thuận thẩm quyền của ICC trong các vụ án liên quan ngư dân bị tấn công, cướp tài sản, việc Trung Quốc hủy diệt môi trường sinh thái ở Biển Đông hay vụ Trung Quốc thảm sát 64 cán bộ, chiến sĩ trên đá Gạc Ma bằng cách gửi tuyên bố cho Chánh Lục Sự (Registrar) của ICC. Điều này có nghĩa là Việt Nam không cần tiến hành các thủ tục ký kết và phê chuẩn Quy chế Rome 1998 về ICC, mà vẫn có thể đưa các vụ việc trên ra toà án này.
Với những căn cứ trên, Toà trọng tài được xem là thiết chế tài phán quốc tế mang tính khả thi nhất hiện nay mà Việt Nam có thể lựa chọn cho việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến những yêu sách vô lý và những hành vi trái pháp luật quốc tế của Trung Quốc, phù hợp với tích chất phức tạp của các tranh chấp và phù hợp với lập trường “không giống ai” của Trung Quốc tại khu vực biển này.
Trước những yêu sách phi lý và những hành vi ngang ngược của Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên các vùng biển của Việt Nam trong thời gian vừa qua, Việt Nam cần có sự thể hiện thích hợp quan điểm pháp lý của mình và nên nghiên cứu tìm kiếm một phán quyết ràng buộc về mặt pháp lý trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam có thể khởi kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài với nội dung kiện tương tự như của Philippines. Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể bổ sung thêm một số vấn đề khác như yêu cầu Tòa Trọng tài xem xét việc Trung Quốc (2014) hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong thềm lục địa Việt Nam có vi phạm UNCLOS hay không; tàu cá Trung Quốc sử dụng phương thức đánh bắt tận diệt hải sản, phá hủy môi trường sinh thái vi phạm quy định nào của UNCLOS; các vụ tàu Trung Quốc tấn công, cướp tài sản của ngư dân Việt Nam vi phạm các quy định nào…
Cần tập trung vào những vấn đề trọng tâm
Trung Quốc đã rào trước đón sau rất kỹ về mặt pháp lý để hầu như tránh hết các khả năng bị kiện, đồng thời kiên định thực hiện chiến lược giải quyết tranh chấp song phương nhằm chủ động phòng ngừa những khả năng bị kiện còn lại khác. Có thể thấy với Tuyên bố 2006, trên thực tế Trung Quốc đã loại trừ hầu hết các loại tranh chấp trên biển Đông ra khỏi quyền tài phán của một cơ quan tài phán quốc tế. Việc Philippines khởi kiện Trung Quốc đánh dấu lần đầu tiên tranh chấp trên Biển Đông được đưa ra trước một cơ quan tài phán quốc tế. Tham khảo Thông báo và tuyên bố yêu sách của Philippines ngày 22/1/2013, Việt Nam sẽ đưa ra lập luận về việc có những tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc về việc giải thích hay áp dụng các điều khoản của UNCLOS ngoài các tranh chấp nằm trong vùng loại trừ của Trung Quốc và thuộc thẩm quyền của một cơ quan tài phán quốc tế. Trên cơ sở đó, Việt Nam sẽ xác định nội dung khởi kiện Trung Quốc để yêu cầu Tòa đưa ra phán quyết liên quan đến các vấn đề sau: (1) Tuyên bố Trung Quốc chỉ có thể yêu sách quyền với các vùng biển tính từ lãnh thổ đất liền (bao gồm các đảo), yêu sách từ đường chín đoạn không phù hợp với UNCLOS; (2) Giải thích Điều 121.3 và khả năng áp dụng ở biển Đông. Cụ thể, yêu cầu Tòa đưa ra phán quyết về việc tất cả các “đảo” do phía Trung Quốc chiếm đóng là “đá” chỉ được hưởng lãnh hải 12 hải lý vì chúng không thể “duy trì đời sống con người hay đời sống kinh tế” theo như quy định tại điều 121.3 UNCLOS. Khẳng định Trung Quốc đã đưa ra yêu sách bất hợp pháp đối với các vùng biển ngoài 12 hải lý từ các thực thể đó; (3) Xác định hành vi của tàu Trung Quốc trong thời gian gần đây (tàu hải giám, hải cảnh, tuần ngư… thuộc sở hữu nhà nước Trung Quốc) phá hỏng, đánh chìm tàu Việt Nam, gây thương tích cho người Việt Nam là hành vi sử dụng vũ lực. Trên sơ sở đó tuyên bố Trung Quốc sử dụng vũ lực vi phạm Điều 2.4 Hiến chương Liên hợp quốc và Điều 279 UNCLOS. Nội dung kiện này hoàn toàn không nằm trong vùng loại trừ của Trung Quốc; (4) Tuyên bố việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981, nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 cùng tàu hộ tống vào khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và việc Trung Quốc dùng các tàu của mình ngăn cản các tàu chấp pháp của Việt Nam thực hiện quyền kiểm tra, khám xét giàn khoan HD 981, tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo Điều 56 và Điều 77 của UNCLOS; (5) Tuyên bố các hành vi của Trung Quốc liên quan đến sự kiện hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (thiết lập vùng an toàn 3 hải lý, cấm các loại tàu bè đi vào vùng biển có bán kính 3 hải lý xung quanh giàn khoan HD 981, và va đâm các tàu chấp pháp Việt Nam, dùng vòi rồng tấn công…) là vi phạm quyền tự do hàng hải, đe dọa an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực của Việt Nam và các nước trên thế giới, trái với Điều 58, Điều 60 của UNCLOS; (6) Tuyên bố việc Trung Quốc thiết lập vùng nước quần đảo hoặc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho các đảo ở quần đảo Hoàng Sa không phù hợp với các Điều 47, 48, 49 và 121 của UNCLOS; (7) Tuyên bố hành vi bồi đắp, xây dựng với quy mô rất lớn của Trung Quốc (trên các bãi đá Gạc Ma, Châu Viên, Chữ Thập, Gaven, Tư Nghĩa, Xu Bi, Vành Khăn mà Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm đóng) trên Biển Đông là trái với quy định về xây dựng đảo và công trình, thiết bị nhân tạo của UNCLOS; (8) Liên quan vụ nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 cùng tàu hộ tống vào thăm dò, khảo sát trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Việt Nam có thể lập luận các lô 05, 06, 07, 130, 131, 132, 133, 154, 155, 156, 157 và một phần của bãi Tư Chính nằm trong EEZ tính từ lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam; Phần còn lại của bãi Tư Chính nằm trong thềm lục địa tính từ lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam; Các khu vực này nằm dưới mặt nước, do đó không nước nào có thể tuyên bố chủ quyền đối với chúng. Bất cứ nước nào, tối đa cũng chỉ có các loại quyền chủ quyền và quyền tài phán (khác với chủ quyền) dựa trên nguyên tắc đất thống trị biển và UNCLOS; Các khu vực này không thể nằm trong EEZ hay thềm lục địa của bất cứ đảo nào đang bị tranh chấp (tức là các đảo thuộc quần đảo Trường Sa). (Lý do là theo Điều 121(3) UNCLOS không đảo nào được hưởng quy chế vùng EEZ hay thềm lục địa, như HĐTT 2016 đã khẳng định). Trung Quốc không thể có quyền lịch sử đối với vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Việt Nam. (Lưu ý HĐTT 2016 đã khẳng định rằngTrung Quốc vừa không hề có quyền lịch sử đối với vùng biển và đáy biển bên ngoài lãnh hải 12 hải lý, vừa không thể bắt cá hai tay, một mặt thì đòi tự do tiền-UNCLOS trong việc họ khai thác bên trong EEZ của các nước khác, một mặt thì không chấp nhận tự do tự do tiền-UNCLOS của các nước khác khai thác bên trong EEZ của họ. Việc phê chuẩn UNCLOS có nghĩa phải bỏ cả hai sự tự do này). Vì vậy các khu vực này hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. (Lưu ý đây là những quyền có hạn chế được UNCLOS quy định, khác với chủ quyền mà không nước nào có thể có). Trung Quốc đã vi phạm các quyền này của Việt Nam và phải ngưng vi phạm…
Đáng chú ý, bản chất của tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa là tranh chấp chủ quyền, không phải là diễn giải và áp dụng UNCLOS. Cho nên, cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của UNCLOS không bao gồm những tranh chấp mà bản chất là tranh chấp chủ quyền. Tòa án Công lý Quốc tế cũng không có thẩm quyền để xử tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa cho đến khi mọi bên trong tranh chấp đã chấp nhận thẩm quyền của Tòa bằng một trong những hình thức trong Điều 36 và 37 của Quy chế của Tòa, và hiện nay điều kiện đó chưa được đáp ứng. Do đó, Việt Nam chưa nên kiện về vấn đề tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Chuẩn bị kỹ lưỡng hồ sơ pháp lý
Đây là một trong những công việc rất quan trọng. Về cơ bản, hồ sơ pháp lý Việt Nam cần chuẩn bị bao gồm các tài liệu, văn bản sau đây: (i) Đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp. Trong đơn cần thể hiện một cách cụ thể các yêu sách của Việt Nam, phạm vi các vấn đề có tranh chấp cũng như quan điểm của Việt Nam đối với các nội dung tranh chấp. Đặc biệt cần xác định rõ phạm vi của khu vực tranh chấp cũng như phạm vi những nội dung có tranh chấp, tránh nhầm lẫn giữa khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam bị nước khác chiếm giữ với khu vực cả hai bên cùng tranh chấp cũng như phải giới hạn rõ ràng các nội dung tranh chấp, tranh chấp về thềm lục địa, tranh chấp về đường biên giới trên biển hoặc tranh chấp về vùng đặc quyền kinh tế… (ii) Bản bảo vệ yêu sách của Việt Nam. Đây là văn bản quan trọng nhất để bảo vệ quan điểm của Việt Nam. Cần chú ý lập luận theo một trình tự, định hướng nhất quán, tránh mâu thuẫn, xung đột giữa các quan điểm bảo vệ cho các yêu sách khác nhau của Việt Nam. Việt Nam cần tập hợp các chuyên gia trong lĩnh vực này để tư vấn ý kiến cho việc soạn thảo bản bảo vệ yêu sách chủ quyền của mình. (iii) Chứng cứ pháp lý chứng minh yêu sách của Việt Nam. Đây là những cơ sở pháp lý chứng minh cho bản yêu sách ở trên vì vậy cần phải có sự chuẩn bị đầy đủ và khoa học mọi chứng cứ có liên quan. Các chứng cứ phải được phân loại thành từng nhóm theo những tiêu chí nhất định. Ví dụ: chứng cứ xuất phát từ tư liệu lịch sử, chứng cứ xuất phát từ pháp luật quốc tế, chứng cứ xuất phát từ thực địa trên thực tế… (iv) Văn bản tranh luận phản bác lại quan điểm đối ngược của quốc gia tranh chấp với Việt Nam. Trước khi đưa vụ việc tranh chấp ra giải quyết tại bất cứ cơ quan tài phán quốc tế nào Việt Nam cần nghiên cứu các cơ sở pháp lý mà các nước khác sử dụng để chứng minh cho yêu sách chủ quyền của họ cũng như nghiên cứu những yêu sách đó trong tương quan so sánh với những chứng cứ mà Việt Nam đang có để chuẩn bị trước các lập luận phản bác. Văn bản này sẽ nộp cho Tòa trọng tài và gửi cho Trung Quốc trong quá trình Tòa giải quyết tranh chấp. (v) Ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước về vấn đề tranh chấp mà Việt Nam đã tập hợp qua cơ chế tham vấn hoặc tư vấn (trong trường hợp cần thiết). Những ý kiến này thường đến từ các hội thảo khoa học quốc tế, các hội nghị quốc tế giữa các quốc gia có liên quan, các công trình khoa học có liên quan đã công bố… (vi) Tùy từng trường hợp cụ thể có thể có thêm các tài liệu khác. Các tài liệu này được tập hợp, sắp xếp lại thành hồ sơ pháp lý của vụ kiện. Việc chuẩn bị hồ sơ pháp lý cần phù hợp với yêu cầu của quy trình tố tụng mà Việt Nam đã lựa chọn cũng như phải đảm bảo được tính hiệu quả, thuận lợi trong việc sử dụng để bảo vệ yêu sách của Việt Nam.