Không chỉ tiến hành xâm chiếm biển đảo của nước khác, Trung Quốc còn ngang nhiên tiến hành quân sự hóa trên các đảo, đá chiếm đóng trái phép; tăng cường tuần tra, tấn công tàu thuyền nước khác; đâm va, cản phá các nước thăm dò khai thác dầu khí trên biển; lợi dụng vấn đề nghiên cứu khoa học để củng cố cái gọi là “chủ quyền” ở Biển Đông… những hành vi trên của Trung Quốc đã đi quá giới hạn chịu đựng của các nước trong khu vực.
Trung Quốc liên tục khiêu khích
Từ cuối năm 2019 đến nay, Trung Quốc liên tục tăng cường các hoạt động phi pháp trên Biển Đông, đe dọa nghiệm trọng hòa bình, ổn định trong khu vực và khiêu khích giới hạn chịu đựng của các nước.
Trung Quốc tiến hành tuần tra, tập trận phi pháp ở Biển Đông. Trung Quốc đã liên tục tiến hành tuần tra, tập trận phi pháp ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam) và bãi cạn Scarborough (chiếm từ tay Philippines vào năm 2012). Trung Quốc vừa tiến hành “tuần tra chiến đấu”, vừa tiến hành tập trận chiến đấu thực tế, cho thấy quân đội Trung Quốc có thể triển khai “chiến đấu” bất cứ lúc nào. Điều này thể hiện Trung Quốc quyết tâm kiểm soát bằng được vùng biển, vùng trời theo yêu sách “đường chín đoạn” vô lý, phi pháp ở Biển Đông.
Không những vậy, Trung Quốc ngang nhiên điều tàu dân quân biển, tàu chấp pháp vào hoạt động trái phép trong vùng biển của Việt Nam, Malaysia, Indonesia…; cho tàu cản phá hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí của Việt Nam và Malaysia; đưa tàu cá, tàu chấp pháp vào hoạt động trái phép trong vùng biển Natuna của Indonesia… buộc các nước phải điều chỉnh chính sách, đưa lực lượng chấp pháp ra ngăn chặn, xua đuổi tàu Trung Quốc.
Bên cạnh đó, Trung Quốc đơn phương xây dựng, triển khai và đưa vào vận hành nhiều trung tâm nghiên cứu khoa học trá hình trên đá Chữ Thập, đá Subi và đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Hành động của Trung Quốc được cho là lợi dụng chiêu bài nghiên cứu khoa học để phục vụ âm mưu kiểm soát Biển Đông và hoạt động quân sự trong khu vực. Ngoài ra, Trung Quốc còn đưa tàu chiến, máy bay chiến đấu theo đuổi, gây hấn với tàu chiến của Mỹ khi tuần tra tự do hàng hải hợp pháp trong khu vực Biển Đông.
Các nước chung tay đối phó Trung Quốc
Mỹ liên tục cử máy bay, tàu chiến tiến hành tuần tra tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông. Trong các hoạt động trên của Mỹ, nhiều lần nước này đã cử tàu chiến đi vào trong khu vực 12 hải lý xung quanh các đảo nhân tạo do Trung Quốc chiếm đóng phi pháp ở quần đảo Trường Sa. Hành động này của Mỹ được coi là thách thức “giới hạn đọ” và yêu sách chủ quyền phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Chuyên gia Jeff M.Smith, Giám đốc chương trình Nam Á, thành viên Hội đồng Chính sách đối ngoại Mỹ ở Washington cho rằng, vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông và Hoa Đông đã vượt xa ranh giới khu vực, do đó, đã đến lúc Mỹ phải đặt ra “giới hạn đỏ” đối với Trung Quốc. Theo chuyên gia Jeff M. Smith, vấn đề chủ quyền hàng hải trong vùng Biển Hoa Đông và Biển Đông bao gồm nhiều nội dung hơn chứ không chỉ đơn giản là tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc với các nước láng giềng. Nó cũng liên quan đến một loạt bất đồng giữa Mỹ và Trung Quốc về việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trong khu vực 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và đặc biệt là quyền của quân đội Mỹ tiến hành các hoạt động giám sát ở khu vực đó. Mỹ cần phải vạch ra “giới hạn đỏ” về những hành vi, thái độ không thể chấp nhận trong lĩnh vực hàng hải của Trung Quốc. Mỹ có lẽ là nước duy nhất có khả năng vạch ra và thực thi “giới hạn đỏ” với Trung Quốc, bởi chính quyền Bắc Kinh trong khi bắt nạt các nước láng giềng, nhưng vẫn phải thừa nhận và tôn trọng sức mạnh của Mỹ. Hơn nữa các đồng minh của Mỹ trong khu vực đang phụ thuộc vào Mỹ là một bức tường lửa chống lại sự xâm lược của Trung Quốc ở Tây Thái Bình Dương.
Không chỉ tuần tra tự do hàng hải, Mỹ còn tăng cường hợp tác quân sự song phương, đa phương với các nước trong khu vực để đối phó với Trung Quốc. Mới đây nhất, Mỹ đã điều tàu chiến hiện đại tham gia cuộc tập trận “Hổ mang vàng” với Thái Lan; điều tàu sân bay USS Theodore Roovelft thăm Việt Nam; đưa tàu chiến di chuyển qua eo biển Đài Loan…
Trong khi đó, các nước trong khu vực như Indonesia, Malaysia, Việt Nam… đã tăng cường lực lượng chấp pháp hiện diện trên Biển Đông để ngăn chặn, xua đuổi tàu Trung Quốc hoạt động trái phép. Indonesia một mặt tăng cường hiện đại hóa lực lượng hải quân và lực lượng chấp pháp, mua sắm nhiều trang thiết bị quân sự hiện đại như tàu chiến, máy bay chiến đấu; mặt khác, Indonesia gia tăng hiện diện quân sự trên thực địa, sẵn sàng đáp trả hoạt động phi pháp của Trung Quốc. Mới đây, khi Trung Quốc đưa gần 100 tàu cá và tàu chấp pháp hoạt động trái phép trong vùng biển Natuna, Chính quyền Tổng thống Indonesia Joko Widodo đã có những động thái cứng rắn nhằm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển. Ngoài việc điều thêm lực lượng, tàu chiến, máy bay chiến đấu tới tuần tra vùng biển này, Tổng thống Joko Widodo cũng đã tới thị sát trên thực địa nhằm khẳng định quyết tâm của Chính quyền trong việc bảo vệ chủ quyền. Không những vậy, quân đội Indonesia đã điều cả máy bay F-16 giám sát, xua đuổi các tàu cảnh sát biển Trung Quốc ở vùng biển gần quần đảo Natuna.
Giải pháp khả thi
Về phương diện khoa học luật quốc tế, các quốc gia không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, mà phải giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Điều 33 Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định, hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế là một nghĩa vụ pháp lý của tất cả các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế. Căn cứ vào bản chất, thẩm quyền và thủ tục giải quyết tranh chấp, các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế có thể được chia làm hai nhóm cơ bản:
Thứ nhất, các biện pháp giải quyết tranh chấp mang tính ngoại giao, gồm các biện pháp đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, giải quyết trước các tổ chức quốc tế bằng các hiệp định khu vực, với đặc điểm cơ bản là giải quyết tranh chấp bằng đối thoại, thương lượng thông qua các diễn đàn, Hội nghị quốc tế do các bên tranh chấp hoặc bên thứ ba tổ chức. Có thể kể đến là các tổ chức quốc tế liên chính phủ như ASEAN, Liên minh châu Âu, Liên minh châu Phi,… Kết quả giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp này thường là các nghị quyết, khuyến cáo của các tổ chức quốc tế hoặc các cam kết và các điều ước quốc tế được các bên tranh chấp ký.
Thứ hai, các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng tài phán. Các biện pháp này có đặc điểm là giải quyết tranh chấp theo trình tự, thủ tục tố tụng tư pháp, thông qua hoạt động xét xử với kết quả giải quyết tranh chấp là các phán quyết của Tòa án quốc tế hoặc Trọng tài quốc tế có giá trị chung thẩm, bắt buộc các bên liên quan phải tuân thủ và thực hiện.
Ngoài hai nhóm biện pháp trên, một biện pháp mới không được đề cập trong Hiến chương nhưng được áp dụng rất nhiều trong thực tiễn là môi giới giải quyết tranh chấp. Nghĩa là, các cá nhân có uy tín lớn trong quan hệ quốc tế như Nguyên thủ quốc gia, Tổng thư ký hoặc nguyên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc được các bên tranh chấp đề nghị đứng ra thuyết phục để các bên gặp gỡ, tiếp xúc nhằm giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh Hiến chương Liên Hợp Quốc, Công ước 1982 đã dành ra 9 điều và 4 phụ lục để quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp. Trong khuôn khổ Công ước 1982, Điều 287 quy định bốn cơ quan giải quyết tranh chấp: (1) Tòa quốc tế về Luật biển được thành lập theo Phụ lục VI; (2) Tòa án Công lý quốc tế; (3) Tòa Trọng tài đặc biệt được thành lập theo Phụ lục VIII, để giải quyết một hay nhiều tranh chấp đã được quy định rõ trong đó; (4) Tòa trọng tài quốc tế được thành lập theo Phụ lục VII. Một lưu ý rằng, nếu các bên trong tranh chấp không chọn trước hay không thỏa thuận được cơ quan giải quyết tranh chấp nào trong bốn cơ quan trên, thì phải dùng đến Tòa trọng tài quốc tế. Nghĩa là, nếu các bên không có tuyên bố trước hoặc có thỏa thuận khác, biện pháp giải quyết bằng Tòa trọng tài quốc tế mặc nhiên được áp dụng.
Đối với căng thẳng ở Biển Đông hiện nay, việc tìm kiếm một giải pháp hữu hiệu và duy nhất là khó có khả thi. Tuy nhiên, các nước liên quan tranh chấp chủ quyền, cũng như các nước có lợi ích ở Biển Đông có thể triển khai một số biện pháp nhằm hạn chế gia tăng căng thẳng, tăng cường hợp tác, trao đổi để từng bước xây dựng nền móng giải quyết triệt để tranh chấp ở Biển Đông. Cụ thể: (1) Để có giải pháp chung cuộc đối với tranh chấp trên Biển Đông thì các nước liên quan cần sẽ theo đuổi con đường đàm phán, trao đổi với các bên có tranh chấp để đạt được thỏa thuận hợp lý. (2) Trong khi chờ đợi có được giải pháp lâu dài đó, các nước liên quan cũng cần sẵn sàng chấp nhận những giải pháp tạm thời, bao gồm hợp tác trên những vấn đề không nhạy cảm như tìm kiếm, cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo và bảo vệ môi trường và hợp tác cùng khai thác. Riêng trên vấn đề hợp tác cùng khai thác (dầu khí) mà Bắc Kinh lâu nay vẫn vận động các nước thực hiện theo nguyên tắc “gạt tranh chấp, cùng hợp tác” trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam là không thể chấp nhận được. (3) Các bên liên quan cũng cần phải kiên trì, có thiện chí và xây dựng lòng tin chính trị để cùng tiến tới đàm phán giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Tuy nhiên, các bên cần phải tôn trọng quyền lợi chính đáng của nhau cũng như kiểm soát tình cảm dân tộc cực đoan, kích động hận thù, bài ngoại của người dân trong nước vốn gây cản trở cho quá trình đàm phán. (4) Các nước cần tuyệt đối tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS và Hiến chương LHQ và các thỏa thuận, tuyên bố chính trị song phương, đa phương đã ký kết trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.